سورة النور بالفيتنامية

  1. استمع للسورة
  2. سور أخرى
  3. ترجمة السورة
القرآن الكريم | ترجمة معاني القرآن | اللغة الفيتنامية | سورة النور | An Nur - عدد آياتها 64 - رقم السورة في المصحف: 24 - معنى السورة بالإنجليزية: The Light.

سُورَةٌ أَنزَلْنَاهَا وَفَرَضْنَاهَا وَأَنزَلْنَا فِيهَا آيَاتٍ بَيِّنَاتٍ لَّعَلَّكُمْ تَذَكَّرُونَ(1)

(Đây là) chương Kinh TA ban xuống và qui định thành luật. TA ban xuống trong chương này những câu Kinh rất rõ ràng mong rằng các ngươi có thể ghi nhớ.

الزَّانِيَةُ وَالزَّانِي فَاجْلِدُوا كُلَّ وَاحِدٍ مِّنْهُمَا مِائَةَ جَلْدَةٍ ۖ وَلَا تَأْخُذْكُم بِهِمَا رَأْفَةٌ فِي دِينِ اللَّهِ إِن كُنتُمْ تُؤْمِنُونَ بِاللَّهِ وَالْيَوْمِ الْآخِرِ ۖ وَلْيَشْهَدْ عَذَابَهُمَا طَائِفَةٌ مِّنَ الْمُؤْمِنِينَ(2)

Nam nữ phạm tội Zina(1), các ngươi hãy đánh mỗi người một trăm roi. Các ngươi chớ động lòng thương hại họ trong việc chấp hành mệnh lệnh của Allah nếu các ngươi thực sự có đức tin nơi Allah và Ngày Sau. Và các ngươi hãy mời một nhóm người có đức tin đến chứng kiến việc trừng phạt họ.

الزَّانِي لَا يَنكِحُ إِلَّا زَانِيَةً أَوْ مُشْرِكَةً وَالزَّانِيَةُ لَا يَنكِحُهَا إِلَّا زَانٍ أَوْ مُشْرِكٌ ۚ وَحُرِّمَ ذَٰلِكَ عَلَى الْمُؤْمِنِينَ(3)

Người đàn ông Zina (gian dâm) không quan hệ tình dục ngoại trừ với người phụ nữ Zina hoặc với người phụ nữ thờ đa thần. (Tương tự), người phụ nữ Zina không quan hệ tình dục ngoại trừ với người đàn ông Zina hoặc với người đàn ông thờ đa thần. Và điều đó bị cấm đối với những người có đức tin.

وَالَّذِينَ يَرْمُونَ الْمُحْصَنَاتِ ثُمَّ لَمْ يَأْتُوا بِأَرْبَعَةِ شُهَدَاءَ فَاجْلِدُوهُمْ ثَمَانِينَ جَلْدَةً وَلَا تَقْبَلُوا لَهُمْ شَهَادَةً أَبَدًا ۚ وَأُولَٰئِكَ هُمُ الْفَاسِقُونَ(4)

Những ai cáo buộc những người phụ nữ trinh thục (làm điều Zina) nhưng lại không đưa ra đủ bốn nhân chứng (cho điều cáo buộc đó) thì các ngươi hãy đánh họ tám mươi roi và sau này các ngươi chớ bao giờ nhận lấy bất cứ bằng chứng nào từ nơi họ nữa bởi họ là những kẻ nói dối và bất tuân (Allah).

إِلَّا الَّذِينَ تَابُوا مِن بَعْدِ ذَٰلِكَ وَأَصْلَحُوا فَإِنَّ اللَّهَ غَفُورٌ رَّحِيمٌ(5)

Ngoại trừ những ai sau đó đã ăn năn sám hối và cải thiện bản thân thì quả thật Allah hằng tha thứ và nhân từ.

وَالَّذِينَ يَرْمُونَ أَزْوَاجَهُمْ وَلَمْ يَكُن لَّهُمْ شُهَدَاءُ إِلَّا أَنفُسُهُمْ فَشَهَادَةُ أَحَدِهِمْ أَرْبَعُ شَهَادَاتٍ بِاللَّهِ ۙ إِنَّهُ لَمِنَ الصَّادِقِينَ(6)

Những ai cáo buộc vợ của họ (ngoại tình) nhưng không có ai làm nhân chứng (cho việc cáo buộc đó) ngoài bản thân họ thì mỗi người trong số họ phải thề bốn lần với Allah rằng mình là người nói thật.

وَالْخَامِسَةُ أَنَّ لَعْنَتَ اللَّهِ عَلَيْهِ إِن كَانَ مِنَ الْكَاذِبِينَ(7)

Và trong lời thề lần thứ năm rằng y sẽ bị Allah nguyền rủa nếu như y là kẻ nói dối.

وَيَدْرَأُ عَنْهَا الْعَذَابَ أَن تَشْهَدَ أَرْبَعَ شَهَادَاتٍ بِاللَّهِ ۙ إِنَّهُ لَمِنَ الْكَاذِبِينَ(8)

Người vợ sẽ tránh được hình phạt (bị ném đá đến chết) nếu nữ ta thề bốn lần với Allah rằng y ta (người chồng) là kẻ nói dối.

وَالْخَامِسَةَ أَنَّ غَضَبَ اللَّهِ عَلَيْهَا إِن كَانَ مِنَ الصَّادِقِينَ(9)

Và trong lời thề lần thứ năm rằng Allah sẽ giáng cơn thịnh nộ của Ngài lên nữ ta nếu chồng của nữ ta là người nói thật.

وَلَوْلَا فَضْلُ اللَّهِ عَلَيْكُمْ وَرَحْمَتُهُ وَأَنَّ اللَّهَ تَوَّابٌ حَكِيمٌ(10)

Nếu không nhờ hồng phúc và lòng thương xót của Allah dành cho các ngươi (thì quả thật các ngươi đã bị trừng phạt), tuy nhiên, Allah là Đấng Đại Lượng, Đấng Chí Minh.

إِنَّ الَّذِينَ جَاءُوا بِالْإِفْكِ عُصْبَةٌ مِّنكُمْ ۚ لَا تَحْسَبُوهُ شَرًّا لَّكُم ۖ بَلْ هُوَ خَيْرٌ لَّكُمْ ۚ لِكُلِّ امْرِئٍ مِّنْهُم مَّا اكْتَسَبَ مِنَ الْإِثْمِ ۚ وَالَّذِي تَوَلَّىٰ كِبْرَهُ مِنْهُمْ لَهُ عَذَابٌ عَظِيمٌ(11)

Quả thật, những kẻ vu khống (‘A-ishah vợ của Thiên Sứ Muhammad) chỉ gồm một phần tử nhỏ trong các ngươi. Các ngươi chớ nghĩ rằng đó là điều xấu cho các ngươi, mà (các ngươi hãy biết rằng) đó là điều tốt cho các ngươi. Mỗi người trong bọn họ (những kẻ vu khống) sẽ phải chịu sự trừng phạt cho tội mà họ đã gây ra, riêng kẻ chủ mưu sẽ phải chịu hình phạt khủng khiếp.

لَّوْلَا إِذْ سَمِعْتُمُوهُ ظَنَّ الْمُؤْمِنُونَ وَالْمُؤْمِنَاتُ بِأَنفُسِهِمْ خَيْرًا وَقَالُوا هَٰذَا إِفْكٌ مُّبِينٌ(12)

Đáng lẽ ra khi nghe lời vu khống đó, những người có đức tin nam cũng như nữ nên nghĩ tốt cho các tín hữu của mình và nói với (những kẻ vu khống): “Đây rõ ràng là một sự vu khống!”

لَّوْلَا جَاءُوا عَلَيْهِ بِأَرْبَعَةِ شُهَدَاءَ ۚ فَإِذْ لَمْ يَأْتُوا بِالشُّهَدَاءِ فَأُولَٰئِكَ عِندَ اللَّهِ هُمُ الْكَاذِبُونَ(13)

Đáng lẽ ra họ phải đưa ra đủ bốn nhân chứng cho việc đó bởi lẽ khi họ không đưa ra đủ số lượng nhân chứng thì đối với Allah họ đích thực là những kẻ nói dối.

وَلَوْلَا فَضْلُ اللَّهِ عَلَيْكُمْ وَرَحْمَتُهُ فِي الدُّنْيَا وَالْآخِرَةِ لَمَسَّكُمْ فِي مَا أَفَضْتُمْ فِيهِ عَذَابٌ عَظِيمٌ(14)

Nếu không nhờ hồng phúc và lòng thương xót của Allah dành cho các ngươi ở đời này và ở Đời Sau thì chắc chắn các ngươi đã phải chịu sự trừng phạt khủng khiếp về tội các ngươi đã loan (tin đồn thất thiệt).

إِذْ تَلَقَّوْنَهُ بِأَلْسِنَتِكُمْ وَتَقُولُونَ بِأَفْوَاهِكُم مَّا لَيْسَ لَكُم بِهِ عِلْمٌ وَتَحْسَبُونَهُ هَيِّنًا وَهُوَ عِندَ اللَّهِ عَظِيمٌ(15)

Khi các ngươi lan truyền (tin thất thiệt đó) cho nhau bằng chiếc lưỡi của các ngươi và các ngươi nói bằng miệng mồm của các ngươi về điều mà các ngươi không hề biết và các ngươi cho rằng đó là điều nhỏ nhặt, cỏn con (không đáng bận tâm) thì trái lại, đối với Allah, nó thực sự là một điều vô cùng trọng đại.

وَلَوْلَا إِذْ سَمِعْتُمُوهُ قُلْتُم مَّا يَكُونُ لَنَا أَن نَّتَكَلَّمَ بِهَٰذَا سُبْحَانَكَ هَٰذَا بُهْتَانٌ عَظِيمٌ(16)

Đáng lẽ ra khi nghe (tin đồn thất thiệt đó), các ngươi nên nói: “Bàn tán chuyện này không phải là việc của chúng tôi. Quang vinh và trong sạch thay Allah, đây quả là một sự vu khống hết sức nghiêm trọng!”

يَعِظُكُمُ اللَّهُ أَن تَعُودُوا لِمِثْلِهِ أَبَدًا إِن كُنتُم مُّؤْمِنِينَ(17)

Allah khuyên các ngươi chớ đừng bao giờ tái phạm điều tương tự nếu các ngươi thực sự là những người có đức tin.

وَيُبَيِّنُ اللَّهُ لَكُمُ الْآيَاتِ ۚ وَاللَّهُ عَلِيمٌ حَكِيمٌ(18)

Allah trình bày rõ ràng cho các ngươi những lời mặc khải (của Ngài) và Allah là Đấng Toàn Tri, Đấng Chí Minh.

إِنَّ الَّذِينَ يُحِبُّونَ أَن تَشِيعَ الْفَاحِشَةُ فِي الَّذِينَ آمَنُوا لَهُمْ عَذَابٌ أَلِيمٌ فِي الدُّنْيَا وَالْآخِرَةِ ۚ وَاللَّهُ يَعْلَمُ وَأَنتُمْ لَا تَعْلَمُونَ(19)

Quả thật những ai trong số những người có đức tin thích cho chuyện xấu (tin đồn thất thiệt, lời vu khống, lời gièm pha) được lan truyền rộng rãi thì sẽ phải chịu một sự trừng phạt đau đớn ở trần thế và cả Đời Sau. Và Allah biết rõ (chân tướng sự thật) trong khi các ngươi không biết gì.

وَلَوْلَا فَضْلُ اللَّهِ عَلَيْكُمْ وَرَحْمَتُهُ وَأَنَّ اللَّهَ رَءُوفٌ رَّحِيمٌ(20)

Nếu không nhờ hồng phúc và lòng thương xót của Allah dành cho các ngươi (thì quả thật các ngươi đã bị trừng phạt), tuy nhiên, Allah là Đấng Khoan Dung, Đấng Nhân Từ.

۞ يَا أَيُّهَا الَّذِينَ آمَنُوا لَا تَتَّبِعُوا خُطُوَاتِ الشَّيْطَانِ ۚ وَمَن يَتَّبِعْ خُطُوَاتِ الشَّيْطَانِ فَإِنَّهُ يَأْمُرُ بِالْفَحْشَاءِ وَالْمُنكَرِ ۚ وَلَوْلَا فَضْلُ اللَّهِ عَلَيْكُمْ وَرَحْمَتُهُ مَا زَكَىٰ مِنكُم مِّنْ أَحَدٍ أَبَدًا وَلَٰكِنَّ اللَّهَ يُزَكِّي مَن يَشَاءُ ۗ وَاللَّهُ سَمِيعٌ عَلِيمٌ(21)

Hỡi những người có đức tin, các ngươi chớ đi theo bước đường của Shaytan. Ai đi theo bước đường của Shaytan thì nó sẽ xúi y làm chuyện xấu và tội lỗi. Nếu không nhờ hồng phúc và lòng thương xót của Allah dành cho các ngươi thì sẽ không một ai trong các ngươi được tẩy sạch tội lỗi, tuy nhiên, Allah tẩy sạch tội lỗi cho ai Ngài muốn. Quả thật, Allah là Đấng Hằng Nghe, Đấng Hằng Biết.

وَلَا يَأْتَلِ أُولُو الْفَضْلِ مِنكُمْ وَالسَّعَةِ أَن يُؤْتُوا أُولِي الْقُرْبَىٰ وَالْمَسَاكِينَ وَالْمُهَاجِرِينَ فِي سَبِيلِ اللَّهِ ۖ وَلْيَعْفُوا وَلْيَصْفَحُوا ۗ أَلَا تُحِبُّونَ أَن يَغْفِرَ اللَّهُ لَكُمْ ۗ وَاللَّهُ غَفُورٌ رَّحِيمٌ(22)

Những người giàu có và dư dả trong các ngươi chớ thề một cách dứt khoát rằng họ sẽ không bố thí cho bà con họ hàng của mình, cho những người khó khăn, và cho những người di cư vì con đường của Allah (đã liên can trong vụ phao tin đồn xấu về ‘A-ishah). Họ hãy nên đại lượng và bỏ qua. Lẽ nào các ngươi không thích được Allah tha thứ cho các ngươi hay sao?! Quả thật, Allah là Đấng Hằng Tha Thứ, Đấng Nhân Từ.(2)

إِنَّ الَّذِينَ يَرْمُونَ الْمُحْصَنَاتِ الْغَافِلَاتِ الْمُؤْمِنَاتِ لُعِنُوا فِي الدُّنْيَا وَالْآخِرَةِ وَلَهُمْ عَذَابٌ عَظِيمٌ(23)

Quả thật những ai vu khống những người phụ nữ có đức tin trinh thục và ngay thơ (làm điều Zina) thì họ sẽ bị nguyền rủa trên trần thế và cả Đời Sau; và họ sẽ phải chịu sự trừng phạt khủng khiếp.

يَوْمَ تَشْهَدُ عَلَيْهِمْ أَلْسِنَتُهُمْ وَأَيْدِيهِمْ وَأَرْجُلُهُم بِمَا كَانُوا يَعْمَلُونَ(24)

Vào Ngày mà chiếc lưỡi, bàn tay cũng như bàn chân của họ sẽ đứng ra làm chứng chống lại họ về những gì mà họ đã làm.

يَوْمَئِذٍ يُوَفِّيهِمُ اللَّهُ دِينَهُمُ الْحَقَّ وَيَعْلَمُونَ أَنَّ اللَّهَ هُوَ الْحَقُّ الْمُبِينُ(25)

Vào Ngày hôm đó, Allah sẽ thanh toán mọi việc làm của họ và họ sẽ biết Allah đích thực là chân lý hiển hiện.

الْخَبِيثَاتُ لِلْخَبِيثِينَ وَالْخَبِيثُونَ لِلْخَبِيثَاتِ ۖ وَالطَّيِّبَاتُ لِلطَّيِّبِينَ وَالطَّيِّبُونَ لِلطَّيِّبَاتِ ۚ أُولَٰئِكَ مُبَرَّءُونَ مِمَّا يَقُولُونَ ۖ لَهُم مَّغْفِرَةٌ وَرِزْقٌ كَرِيمٌ(26)

Những phụ nữ hư đốn xứng đôi với những đàn ông hư đốn và những đàn ông hư đốn xứng đôi với những phụ nữ hư đốn; những người phụ nữ trinh thục đoan chính xứng đối với đàn ông đứng đắn và đàn ông đứng đắn xứng đối với phụ nữ trinh thục đoan chính. Những người (đoan chính, đứng đắn) này vô can với những điều họ nói, họ sẽ được tha thứ và sẽ được ban cho bổng lộc vinh dự (Thiên Đàng).

يَا أَيُّهَا الَّذِينَ آمَنُوا لَا تَدْخُلُوا بُيُوتًا غَيْرَ بُيُوتِكُمْ حَتَّىٰ تَسْتَأْنِسُوا وَتُسَلِّمُوا عَلَىٰ أَهْلِهَا ۚ ذَٰلِكُمْ خَيْرٌ لَّكُمْ لَعَلَّكُمْ تَذَكَّرُونَ(27)

Hỡi những người có đức tin! Các ngươi chớ đi vào nhà của người khác trừ phi các ngươi đã xin phép và chào Salam đến chủ nhà. Điều đó tốt cho các ngươi mong rằng các ngươi lưu tâm.

فَإِن لَّمْ تَجِدُوا فِيهَا أَحَدًا فَلَا تَدْخُلُوهَا حَتَّىٰ يُؤْذَنَ لَكُمْ ۖ وَإِن قِيلَ لَكُمُ ارْجِعُوا فَارْجِعُوا ۖ هُوَ أَزْكَىٰ لَكُمْ ۚ وَاللَّهُ بِمَا تَعْمَلُونَ عَلِيمٌ(28)

Nhưng nếu các ngươi không thấy ai trong nhà thì các ngươi cũng chớ vào cho đến khi các ngươi được cho phép; còn nếu các ngươi được bảo ra về thì các ngươi hãy ra về, điều đó trong sạch cho các ngươi hơn, và Allah biết rõ những gì các ngươi làm.

لَّيْسَ عَلَيْكُمْ جُنَاحٌ أَن تَدْخُلُوا بُيُوتًا غَيْرَ مَسْكُونَةٍ فِيهَا مَتَاعٌ لَّكُمْ ۚ وَاللَّهُ يَعْلَمُ مَا تُبْدُونَ وَمَا تَكْتُمُونَ(29)

Các ngươi không bị tội khi vào những ngôi nhà vắng chủ nhưng trong đó có đồ đạc của các ngươi. Quả thật, Allah biết rõ những gì các ngươi phơi bày cũng như những gì các ngươi giấu kín.

قُل لِّلْمُؤْمِنِينَ يَغُضُّوا مِنْ أَبْصَارِهِمْ وَيَحْفَظُوا فُرُوجَهُمْ ۚ ذَٰلِكَ أَزْكَىٰ لَهُمْ ۗ إِنَّ اللَّهَ خَبِيرٌ بِمَا يَصْنَعُونَ(30)

(Hỡi Thiên Sứ Muhammad!) Ngươi hãy bảo những người có đức tin nam hạ thấp cái nhìn xuống và giữ gìn phần kín (cơ thể) của họ, điều đó trong sạch hơn cho họ. Quả thật, Allah thông toàn mọi điều họ làm.

وَقُل لِّلْمُؤْمِنَاتِ يَغْضُضْنَ مِنْ أَبْصَارِهِنَّ وَيَحْفَظْنَ فُرُوجَهُنَّ وَلَا يُبْدِينَ زِينَتَهُنَّ إِلَّا مَا ظَهَرَ مِنْهَا ۖ وَلْيَضْرِبْنَ بِخُمُرِهِنَّ عَلَىٰ جُيُوبِهِنَّ ۖ وَلَا يُبْدِينَ زِينَتَهُنَّ إِلَّا لِبُعُولَتِهِنَّ أَوْ آبَائِهِنَّ أَوْ آبَاءِ بُعُولَتِهِنَّ أَوْ أَبْنَائِهِنَّ أَوْ أَبْنَاءِ بُعُولَتِهِنَّ أَوْ إِخْوَانِهِنَّ أَوْ بَنِي إِخْوَانِهِنَّ أَوْ بَنِي أَخَوَاتِهِنَّ أَوْ نِسَائِهِنَّ أَوْ مَا مَلَكَتْ أَيْمَانُهُنَّ أَوِ التَّابِعِينَ غَيْرِ أُولِي الْإِرْبَةِ مِنَ الرِّجَالِ أَوِ الطِّفْلِ الَّذِينَ لَمْ يَظْهَرُوا عَلَىٰ عَوْرَاتِ النِّسَاءِ ۖ وَلَا يَضْرِبْنَ بِأَرْجُلِهِنَّ لِيُعْلَمَ مَا يُخْفِينَ مِن زِينَتِهِنَّ ۚ وَتُوبُوا إِلَى اللَّهِ جَمِيعًا أَيُّهَ الْمُؤْمِنُونَ لَعَلَّكُمْ تُفْلِحُونَ(31)

Và Ngươi hãy bảo những người có đức tin nữ hạ thấp cái nhìn xuống và giữ phần kín (cơ thể) của họ; Ngươi hãy bảo họ chớ phô bày nét đẹp của họ ra ngoài ngoại trừ những bộ phận nào lộ ra tự nhiên (gương mặt, bàn tay), Ngươi hãy bảo họ phủ khăn xuống che ngực; Ngươi hãy bảo họ chớ phô bày nét đẹp của họ ra ngoại trừ đối với chồng, cha ruột, cha chồng, con trai ruột, con trai của chồng, anh em trai ruột, con trai của anh em trai ruột, con trai của chị em gái ruột, những người phụ nữ giúp việc, những người đàn ông nô lệ thuộc quyền sở hữu của họ, những người đàn ông phục dịch đã mãn dục, hoặc những bé trai chưa có cảm giác với phần kín của phụ nữ; và Ngươi hãy bảo họ chớ đánh chân mạnh xuống đất hầu để người khác biết được đồ trang sức được giấu trong người của họ. Và tất cả các ngươi hãy quay về sám hối với Allah, hỡi những người có đức tin, mong rằng các ngươi thành đạt.

وَأَنكِحُوا الْأَيَامَىٰ مِنكُمْ وَالصَّالِحِينَ مِنْ عِبَادِكُمْ وَإِمَائِكُمْ ۚ إِن يَكُونُوا فُقَرَاءَ يُغْنِهِمُ اللَّهُ مِن فَضْلِهِ ۗ وَاللَّهُ وَاسِعٌ عَلِيمٌ(32)

Các ngươi (hỡi những người có đức tin nam nữ) hãy kết hôn với những người độc thân trong các ngươi và những người đức hạnh trong số những người nô lệ nam và nữ của các ngươi. Nếu họ nghèo thì Allah sẽ làm cho họ giàu bởi hồng phúc của Ngài, quả thật Allah là Đấng có bổng lộc bao la, là Đấng hằng biết (mọi việc).

وَلْيَسْتَعْفِفِ الَّذِينَ لَا يَجِدُونَ نِكَاحًا حَتَّىٰ يُغْنِيَهُمُ اللَّهُ مِن فَضْلِهِ ۗ وَالَّذِينَ يَبْتَغُونَ الْكِتَابَ مِمَّا مَلَكَتْ أَيْمَانُكُمْ فَكَاتِبُوهُمْ إِنْ عَلِمْتُمْ فِيهِمْ خَيْرًا ۖ وَآتُوهُم مِّن مَّالِ اللَّهِ الَّذِي آتَاكُمْ ۚ وَلَا تُكْرِهُوا فَتَيَاتِكُمْ عَلَى الْبِغَاءِ إِنْ أَرَدْنَ تَحَصُّنًا لِّتَبْتَغُوا عَرَضَ الْحَيَاةِ الدُّنْيَا ۚ وَمَن يُكْرِههُّنَّ فَإِنَّ اللَّهَ مِن بَعْدِ إِكْرَاهِهِنَّ غَفُورٌ رَّحِيمٌ(33)

Đối với những ai không có điều kiện để kết hôn thì hãy kiềm chế (bản thân không phạm điều Haram) cho đến khi Allah làm cho họ giàu có bởi hồng phúc của Ngài. Và những ai trong số những người nô lệ thuộc quyền sở hữu của các ngươi muốn một chứng thư (chuộc tự do cho bản thân họ) thì các ngươi hãy viết cho họ nếu các ngươi biết họ là những người tốt, và các ngươi hãy đưa cho họ (món quà) từ tài sản mà Allah đã ban cấp cho các ngươi. Các ngươi chớ vì lợi ích cuộc sống trần thế mà ép những phụ nữ nô lệ của các ngươi hành nghề mãi dâm nếu họ muốn giữ tiết hạnh. Và nếu ai cưỡng ép họ thì sau việc cưỡng ép đó, Allah vẫn tha thứ và khoan dung (đối với những nạn nhân bị cưỡng ép, tội của họ được qui cho những ai cưỡng ép họ).

وَلَقَدْ أَنزَلْنَا إِلَيْكُمْ آيَاتٍ مُّبَيِّنَاتٍ وَمَثَلًا مِّنَ الَّذِينَ خَلَوْا مِن قَبْلِكُمْ وَمَوْعِظَةً لِّلْمُتَّقِينَ(34)

Quả thật, TA (Allah) đã ban xuống cho các ngươi những lời mặc khải rõ ràng cùng với những bài học (được rút ra từ những câu chuyện) của những người trước các ngươi và lời khuyên răn dành cho những người ngoan đạo.

۞ اللَّهُ نُورُ السَّمَاوَاتِ وَالْأَرْضِ ۚ مَثَلُ نُورِهِ كَمِشْكَاةٍ فِيهَا مِصْبَاحٌ ۖ الْمِصْبَاحُ فِي زُجَاجَةٍ ۖ الزُّجَاجَةُ كَأَنَّهَا كَوْكَبٌ دُرِّيٌّ يُوقَدُ مِن شَجَرَةٍ مُّبَارَكَةٍ زَيْتُونَةٍ لَّا شَرْقِيَّةٍ وَلَا غَرْبِيَّةٍ يَكَادُ زَيْتُهَا يُضِيءُ وَلَوْ لَمْ تَمْسَسْهُ نَارٌ ۚ نُّورٌ عَلَىٰ نُورٍ ۗ يَهْدِي اللَّهُ لِنُورِهِ مَن يَشَاءُ ۚ وَيَضْرِبُ اللَّهُ الْأَمْثَالَ لِلنَّاسِ ۗ وَاللَّهُ بِكُلِّ شَيْءٍ عَلِيمٌ(35)

Allah là Ánh Sáng của các tầng trời và trái đất. Hình ảnh Ánh Sáng của Ngài giống như một ngọn đèn được đặt ở một hốc tường, ngọn đèn nằm trong một chiếc lồng thủy tinh, lồng thủy tinh như một ngôi sao lấp lánh; ngọn đèn được thắp từ một loại dầu của cây ô liu ân phúc, không cần mặt trời ở hướng đông hay ở hướng tây, dầu của nó gần như muốn tỏa sáng mặc dù lửa vẫn chưa chạm đến; ánh sáng bên trên ánh sáng. Allah hướng dẫn đến Ánh Sáng của Ngài đối với ai Ngài muốn. Allah đưa ra hình ảnh thí dụ cho nhân loại bởi vì Allah là Đấng Hằng Biết mọi thứ.

فِي بُيُوتٍ أَذِنَ اللَّهُ أَن تُرْفَعَ وَيُذْكَرَ فِيهَا اسْمُهُ يُسَبِّحُ لَهُ فِيهَا بِالْغُدُوِّ وَالْآصَالِ(36)

(Ánh Sáng của Allah tỏa ra) trong các ngôi nhà (Masjid), nơi mà Allah cho phép được dựng lên, được giữ sạch, và được tôn vinh; và là nơi mà tên của Ngài được tụng niệm và được tán dương sáng tối.

رِجَالٌ لَّا تُلْهِيهِمْ تِجَارَةٌ وَلَا بَيْعٌ عَن ذِكْرِ اللَّهِ وَإِقَامِ الصَّلَاةِ وَإِيتَاءِ الزَّكَاةِ ۙ يَخَافُونَ يَوْمًا تَتَقَلَّبُ فِيهِ الْقُلُوبُ وَالْأَبْصَارُ(37)

Những người mà việc mua bán đổi chác cũng như việc làm ăn kinh doanh không làm họ xao lãng việc tưởng nhớ Allah, không làm họ xao lãng việc dâng lễ nguyện Salah và xuất Zakah; họ luôn sợ cho cái Ngày mà những con tim cũng như những cặp mắt sẽ đảo lộn (vì sợ hãi và hoảng loạn cho việc sẽ bị Allah xét xử).

لِيَجْزِيَهُمُ اللَّهُ أَحْسَنَ مَا عَمِلُوا وَيَزِيدَهُم مِّن فَضْلِهِ ۗ وَاللَّهُ يَرْزُقُ مَن يَشَاءُ بِغَيْرِ حِسَابٍ(38)

(Những người đó) sẽ được Allah ban cho phần thưởng tốt đẹp về những gì mà họ đã làm và Ngài sẽ ban thêm cho họ từ hồng phúc nơi Ngài. Quả thật, Allah ban phát bổng lộc một cách vô kể cho bất cứ ai Ngài muốn.

وَالَّذِينَ كَفَرُوا أَعْمَالُهُمْ كَسَرَابٍ بِقِيعَةٍ يَحْسَبُهُ الظَّمْآنُ مَاءً حَتَّىٰ إِذَا جَاءَهُ لَمْ يَجِدْهُ شَيْئًا وَوَجَدَ اللَّهَ عِندَهُ فَوَفَّاهُ حِسَابَهُ ۗ وَاللَّهُ سَرِيعُ الْحِسَابِ(39)

Những người vô đức tin, việc làm của họ giống như ảo ảnh nơi sa mạc mà một người đang khát cứ tưởng đó là nước cho tới khi y đến đó thì y không thấy gì cả, y chỉ thấy Allah nơi đó đang đợi xét xử y. Quả thật, Allah nhanh chóng trong việc xét xử và thanh toán.

أَوْ كَظُلُمَاتٍ فِي بَحْرٍ لُّجِّيٍّ يَغْشَاهُ مَوْجٌ مِّن فَوْقِهِ مَوْجٌ مِّن فَوْقِهِ سَحَابٌ ۚ ظُلُمَاتٌ بَعْضُهَا فَوْقَ بَعْضٍ إِذَا أَخْرَجَ يَدَهُ لَمْ يَكَدْ يَرَاهَا ۗ وَمَن لَّمْ يَجْعَلِ اللَّهُ لَهُ نُورًا فَمَا لَهُ مِن نُّورٍ(40)

Hoặc (tình cảnh của người vô đức tin) giống như (y đang ở dưới) bóng tối trong lòng biển, bên trên bị bao phủ bởi một lớp sóng và bên trên lớp sóng lại là một đám mây, lớp tối này chồng lên lớp tối kia, khi y đưa tay ra thì y không thể nhìn thấy tay của mình. Và ai mà Allah không cho y ánh sáng thì y không thể nào có được ánh sáng.

أَلَمْ تَرَ أَنَّ اللَّهَ يُسَبِّحُ لَهُ مَن فِي السَّمَاوَاتِ وَالْأَرْضِ وَالطَّيْرُ صَافَّاتٍ ۖ كُلٌّ قَدْ عَلِمَ صَلَاتَهُ وَتَسْبِيحَهُ ۗ وَاللَّهُ عَلِيمٌ بِمَا يَفْعَلُونَ(41)

Lẽ nào Ngươi (Thiên Sứ Muhammad) không thấy vạn vật trong các tầng trời và trái đất đều tán dương Allah ngay cả những loài chim đang xòe đôi cánh của chúng? Quả thật, mỗi vật đều biết cách dâng lễ nguyện Salah cũng như cách tán dương (Allah) của riêng mình; và Allah biết rõ những gì chúng làm.

وَلِلَّهِ مُلْكُ السَّمَاوَاتِ وَالْأَرْضِ ۖ وَإِلَى اللَّهِ الْمَصِيرُ(42)

Quyền thống trị các tầng trời và trái đất đều thuộc về một mình Allah và tất cả mọi vật đều phải trở về với Ngài.

أَلَمْ تَرَ أَنَّ اللَّهَ يُزْجِي سَحَابًا ثُمَّ يُؤَلِّفُ بَيْنَهُ ثُمَّ يَجْعَلُهُ رُكَامًا فَتَرَى الْوَدْقَ يَخْرُجُ مِنْ خِلَالِهِ وَيُنَزِّلُ مِنَ السَّمَاءِ مِن جِبَالٍ فِيهَا مِن بَرَدٍ فَيُصِيبُ بِهِ مَن يَشَاءُ وَيَصْرِفُهُ عَن مَّن يَشَاءُ ۖ يَكَادُ سَنَا بَرْقِهِ يَذْهَبُ بِالْأَبْصَارِ(43)

Lẽ nào Ngươi (Thiên Sứ Muhammad) không thấy việc Allah di chuyển các đám mây rồi gom chúng lại thành một khối lớn và sau đó Ngươi sẽ thấy nước từ giữa khối mây đó rơi xuống? Ngài ban từ bầu trời xuống (những đám mây to như) những quả núi bên trong chứa mưa đá mà Ngài dùng để trừng phạt ai Ngài muốn và Ngài lấy nó đi khỏi ai Ngài muốn. Tia chớp của những đám mây đó gần như làm hoa mắt (con người).

يُقَلِّبُ اللَّهُ اللَّيْلَ وَالنَّهَارَ ۚ إِنَّ فِي ذَٰلِكَ لَعِبْرَةً لِّأُولِي الْأَبْصَارِ(44)

Allah lật trở đêm ngày, quả thật trong sự việc đó là bài học cho những người biết quan sát và thấu hiểu.

وَاللَّهُ خَلَقَ كُلَّ دَابَّةٍ مِّن مَّاءٍ ۖ فَمِنْهُم مَّن يَمْشِي عَلَىٰ بَطْنِهِ وَمِنْهُم مَّن يَمْشِي عَلَىٰ رِجْلَيْنِ وَمِنْهُم مَّن يَمْشِي عَلَىٰ أَرْبَعٍ ۚ يَخْلُقُ اللَّهُ مَا يَشَاءُ ۚ إِنَّ اللَّهَ عَلَىٰ كُلِّ شَيْءٍ قَدِيرٌ(45)

Allah đã tạo ra mọi sinh vật từ nước. Có loài di chuyển bằng bụng, có loài di chuyển bằng hai chân, và có loài di chuyển bằng bốn chân. Allah tạo ra bất cứ thứ gì Ngài muốn, quả thật Allah là Đấng Toàn Năng trên mọi việc.

لَّقَدْ أَنزَلْنَا آيَاتٍ مُّبَيِّنَاتٍ ۚ وَاللَّهُ يَهْدِي مَن يَشَاءُ إِلَىٰ صِرَاطٍ مُّسْتَقِيمٍ(46)

Quả thật, TA (Allah) đã ban xuống những lời mặc khải rất rõ ràng, và Allah hướng dẫn ai Ngài muốn đến với con đường ngay thẳng.

وَيَقُولُونَ آمَنَّا بِاللَّهِ وَبِالرَّسُولِ وَأَطَعْنَا ثُمَّ يَتَوَلَّىٰ فَرِيقٌ مِّنْهُم مِّن بَعْدِ ذَٰلِكَ ۚ وَمَا أُولَٰئِكَ بِالْمُؤْمِنِينَ(47)

Họ (những kẻ giả tạo đức tin – Munafiq) nói “Chúng tôi đã có đức tin nơi Allah và Thiên Sứ và chúng tôi xin vâng lệnh” nhưng rồi sau đó một phần tử của họ quay đi. Quả thật, họ không phải là những người có đức tin.

وَإِذَا دُعُوا إِلَى اللَّهِ وَرَسُولِهِ لِيَحْكُمَ بَيْنَهُمْ إِذَا فَرِيقٌ مِّنْهُم مُّعْرِضُونَ(48)

Khi họ được mời gọi đến với Allah và vị Thiên Sứ của Ngài để Y phân xử giữa bọn họ thì một thành phần trong bọn họ quay bỏ đi.

وَإِن يَكُن لَّهُمُ الْحَقُّ يَأْتُوا إِلَيْهِ مُذْعِنِينَ(49)

Nhưng nếu họ gặp phần phải thì họ mới liền đến gặp Thiên Sứ (Muhammad).

أَفِي قُلُوبِهِم مَّرَضٌ أَمِ ارْتَابُوا أَمْ يَخَافُونَ أَن يَحِيفَ اللَّهُ عَلَيْهِمْ وَرَسُولُهُ ۚ بَلْ أُولَٰئِكَ هُمُ الظَّالِمُونَ(50)

Có phải trong tim của họ có một chứng bệnh hoặc phải chăng họ hoài nghi hay phải chăng họ sợ Allah và Thiên Sứ của Ngài xử ép họ? Không phải vậy, mà bởi vì họ là những kẻ làm điều sai quấy.

إِنَّمَا كَانَ قَوْلَ الْمُؤْمِنِينَ إِذَا دُعُوا إِلَى اللَّهِ وَرَسُولِهِ لِيَحْكُمَ بَيْنَهُمْ أَن يَقُولُوا سَمِعْنَا وَأَطَعْنَا ۚ وَأُولَٰئِكَ هُمُ الْمُفْلِحُونَ(51)

Quả thật, lời của những người có đức tin thực sự khi được mời gọi đến với Allah và Thiên Sứ của Ngài để Y phân xử các vụ việc giữa họ là: “Chúng tôi xin nghe và vâng lời”. Và họ chính là những người thành đạt.

وَمَن يُطِعِ اللَّهَ وَرَسُولَهُ وَيَخْشَ اللَّهَ وَيَتَّقْهِ فَأُولَٰئِكَ هُمُ الْفَائِزُونَ(52)

Những ai tuân lệnh Allah và Thiên Sứ của Ngài, sợ Allah và ngoan đạo đối với Ngài thì họ là những người sẽ giành thắng lợi.

۞ وَأَقْسَمُوا بِاللَّهِ جَهْدَ أَيْمَانِهِمْ لَئِنْ أَمَرْتَهُمْ لَيَخْرُجُنَّ ۖ قُل لَّا تُقْسِمُوا ۖ طَاعَةٌ مَّعْرُوفَةٌ ۚ إِنَّ اللَّهَ خَبِيرٌ بِمَا تَعْمَلُونَ(53)

Họ (những kẻ giả dối) thề thốt với Allah bằng lời thề trọng đại rằng nếu Ngươi (Thiên Sứ Muhammad) ra lệnh bảo họ (chiến đấu) thì chắc chắn họ sẽ ra đi chiến đấu. Ngươi hãy bảo họ: “Các ngươi chớ thề thốt làm chi, sự vâng lời là điều đã được rõ. Quả thật Allah thông toàn tất cả mọi điều các ngươi làm”.

قُلْ أَطِيعُوا اللَّهَ وَأَطِيعُوا الرَّسُولَ ۖ فَإِن تَوَلَّوْا فَإِنَّمَا عَلَيْهِ مَا حُمِّلَ وَعَلَيْكُم مَّا حُمِّلْتُمْ ۖ وَإِن تُطِيعُوهُ تَهْتَدُوا ۚ وَمَا عَلَى الرَّسُولِ إِلَّا الْبَلَاغُ الْمُبِينُ(54)

Ngươi hãy bảo họ (hỡi Thiên Sứ Muhammad): “Các ngươi hãy tuân lệnh Allah và tuân lệnh Thiên Sứ (của Ngài).” Nhưng nếu các ngươi ngoảnh đi (không chịu tuân lệnh) thì quả thật Y (Muhammad) chỉ chịu trách nhiệm về việc làm của Y còn các ngươi phải chịu trách nhiệm cho việc làm của các ngươi, ngược lại, nếu các ngươi tuân lệnh Y thì các ngươi sẽ được hướng dẫn đúng đường. (Và các ngươi hãy biết rằng) nhiệm vụ của Thiên Sứ chỉ là truyền đạt rõ ràng (bức Thông Điệp của Allah).

وَعَدَ اللَّهُ الَّذِينَ آمَنُوا مِنكُمْ وَعَمِلُوا الصَّالِحَاتِ لَيَسْتَخْلِفَنَّهُمْ فِي الْأَرْضِ كَمَا اسْتَخْلَفَ الَّذِينَ مِن قَبْلِهِمْ وَلَيُمَكِّنَنَّ لَهُمْ دِينَهُمُ الَّذِي ارْتَضَىٰ لَهُمْ وَلَيُبَدِّلَنَّهُم مِّن بَعْدِ خَوْفِهِمْ أَمْنًا ۚ يَعْبُدُونَنِي لَا يُشْرِكُونَ بِي شَيْئًا ۚ وَمَن كَفَرَ بَعْدَ ذَٰلِكَ فَأُولَٰئِكَ هُمُ الْفَاسِقُونَ(55)

Allah đã hứa với những người có đức tin và hành thiện trong số các ngươi rằng Ngài sẽ làm cho họ trở thành những người quản lý và lãnh đạo trên trái đất giống như những người đã trở thành những người quản lý và lãnh đạo trước họ, và Ngài sẽ làm cho họ ổn định tôn giáo của họ, tôn giáo mà Ngài đã hài lòng cho họ, và Ngài sẽ đổi lại cho họ sự an ninh và yên bình sau cảnh phập phòng lo sợ (với điều kiện) họ chỉ thờ phượng một mình TA và không tổ hợp với TA bất cứ gì. Và ai vô đức tin sau đó thì họ là những kẻ quấy rối và đại nghịch.

وَأَقِيمُوا الصَّلَاةَ وَآتُوا الزَّكَاةَ وَأَطِيعُوا الرَّسُولَ لَعَلَّكُمْ تُرْحَمُونَ(56)

Các ngươi hãy chu đáo duy trì lễ nguyện Salah, hãy xuất Zakah và hãy tuân lệnh vị Thiên Sứ (của Allah), mong rằng các ngươi được thương xót.

لَا تَحْسَبَنَّ الَّذِينَ كَفَرُوا مُعْجِزِينَ فِي الْأَرْضِ ۚ وَمَأْوَاهُمُ النَّارُ ۖ وَلَبِئْسَ الْمَصِيرُ(57)

Ngươi (Thiên Sứ Muhammad) chớ nghĩ rằng những kẻ vô đức tin sẽ thoát khỏi (Allah) trên trái đất, rồi đây chỗ ngụ của họ sẽ là Hỏa Ngục, một nơi quay về vô cùng tồi tệ.

يَا أَيُّهَا الَّذِينَ آمَنُوا لِيَسْتَأْذِنكُمُ الَّذِينَ مَلَكَتْ أَيْمَانُكُمْ وَالَّذِينَ لَمْ يَبْلُغُوا الْحُلُمَ مِنكُمْ ثَلَاثَ مَرَّاتٍ ۚ مِّن قَبْلِ صَلَاةِ الْفَجْرِ وَحِينَ تَضَعُونَ ثِيَابَكُم مِّنَ الظَّهِيرَةِ وَمِن بَعْدِ صَلَاةِ الْعِشَاءِ ۚ ثَلَاثُ عَوْرَاتٍ لَّكُمْ ۚ لَيْسَ عَلَيْكُمْ وَلَا عَلَيْهِمْ جُنَاحٌ بَعْدَهُنَّ ۚ طَوَّافُونَ عَلَيْكُم بَعْضُكُمْ عَلَىٰ بَعْضٍ ۚ كَذَٰلِكَ يُبَيِّنُ اللَّهُ لَكُمُ الْآيَاتِ ۗ وَاللَّهُ عَلِيمٌ حَكِيمٌ(58)

Hỡi những người có đức tin, những ai dưới quyền của các ngươi cũng như những đứa trẻ chưa đến tuổi dậy thì phải xin phép các ngươi (khi muốn vào phòng riêng của các ngươi) vào ba thời điểm: lúc trước cuộc lễ nguyện Salah Fajr, lúc các ngươi cởi trần để (nằm nghỉ) buổi trưa, và lúc sau cuộc lễ nguyện Salah ‘I-sha’. Đó là ba thời điểm riêng tư mà các ngươi thường ở trần để nghi ngơi. Các ngươi cũng như họ sẽ không bị tội ngoài ba thời điểm đó nếu các ngươi qua lại giao tế với nhau. Như thế đó, Allah trình bày các lời mặc khải của Ngài một cách rõ ràng cho các ngươi và Allah là Đấng Toàn Tri, Đấng Chí Minh.

وَإِذَا بَلَغَ الْأَطْفَالُ مِنكُمُ الْحُلُمَ فَلْيَسْتَأْذِنُوا كَمَا اسْتَأْذَنَ الَّذِينَ مِن قَبْلِهِمْ ۚ كَذَٰلِكَ يُبَيِّنُ اللَّهُ لَكُمْ آيَاتِهِ ۗ وَاللَّهُ عَلِيمٌ حَكِيمٌ(59)

Và khi những đứa trẻ của các ngươi đến tuổi dậy thì, các ngươi hãy bắt chúng xin phép (khi muốn vào phòng riêng của các ngươi) giống như những người trước chúng đã xin phép. Như thế đó, Allah trình bày các lời mặc khải của Ngài một cách rõ ràng cho các ngươi và Allah là Đấng Toàn Tri, Đấng Chí Minh.

وَالْقَوَاعِدُ مِنَ النِّسَاءِ اللَّاتِي لَا يَرْجُونَ نِكَاحًا فَلَيْسَ عَلَيْهِنَّ جُنَاحٌ أَن يَضَعْنَ ثِيَابَهُنَّ غَيْرَ مُتَبَرِّجَاتٍ بِزِينَةٍ ۖ وَأَن يَسْتَعْفِفْنَ خَيْرٌ لَّهُنَّ ۗ وَاللَّهُ سَمِيعٌ عَلِيمٌ(60)

Những người phụ nữ đã quá tuổi không còn ham muốn tình dục thì họ không bị tội nếu như họ cởi lớp áo ngoài của họ ra không vì mục đích phô bày nét đẹp thân thể, nhưng nếu họ không cởi thì sẽ tốt hơn. Quả thật, Allah là Đấng Hằng Nghe, Hằng Biết.

لَّيْسَ عَلَى الْأَعْمَىٰ حَرَجٌ وَلَا عَلَى الْأَعْرَجِ حَرَجٌ وَلَا عَلَى الْمَرِيضِ حَرَجٌ وَلَا عَلَىٰ أَنفُسِكُمْ أَن تَأْكُلُوا مِن بُيُوتِكُمْ أَوْ بُيُوتِ آبَائِكُمْ أَوْ بُيُوتِ أُمَّهَاتِكُمْ أَوْ بُيُوتِ إِخْوَانِكُمْ أَوْ بُيُوتِ أَخَوَاتِكُمْ أَوْ بُيُوتِ أَعْمَامِكُمْ أَوْ بُيُوتِ عَمَّاتِكُمْ أَوْ بُيُوتِ أَخْوَالِكُمْ أَوْ بُيُوتِ خَالَاتِكُمْ أَوْ مَا مَلَكْتُم مَّفَاتِحَهُ أَوْ صَدِيقِكُمْ ۚ لَيْسَ عَلَيْكُمْ جُنَاحٌ أَن تَأْكُلُوا جَمِيعًا أَوْ أَشْتَاتًا ۚ فَإِذَا دَخَلْتُم بُيُوتًا فَسَلِّمُوا عَلَىٰ أَنفُسِكُمْ تَحِيَّةً مِّنْ عِندِ اللَّهِ مُبَارَكَةً طَيِّبَةً ۚ كَذَٰلِكَ يُبَيِّنُ اللَّهُ لَكُمُ الْآيَاتِ لَعَلَّكُمْ تَعْقِلُونَ(61)

Người mù, người què, người bệnh và cả bản thân các ngươi sẽ không bị tội nếu các ngươi dùng bữa tại nhà của các ngươi hoặc tại nhà của cha, của mẹ, của anh em ruột, của chị em ruột, của chú bác, của cô, của cậu, của dì, hoặc tại nhà mà các ngươi giữ chìa khóa, hoặc tại nhà của bạn. Các ngươi sẽ không bị tội nếu các ngươi ăn cùng nhau hay ăn riêng từng nhóm. Tuy nhiên, khi nào các ngươi muốn vào nhà thì các ngươi hãy chào Salam đến nhau bằng lời chào phúc lành mà Allah đã dạy cho các ngươi. Như thế đó, Allah trình bày các lời mặc khải của Ngài một cách rõ ràng cho các ngươi mong rằng các ngươi thấu hiểu.

إِنَّمَا الْمُؤْمِنُونَ الَّذِينَ آمَنُوا بِاللَّهِ وَرَسُولِهِ وَإِذَا كَانُوا مَعَهُ عَلَىٰ أَمْرٍ جَامِعٍ لَّمْ يَذْهَبُوا حَتَّىٰ يَسْتَأْذِنُوهُ ۚ إِنَّ الَّذِينَ يَسْتَأْذِنُونَكَ أُولَٰئِكَ الَّذِينَ يُؤْمِنُونَ بِاللَّهِ وَرَسُولِهِ ۚ فَإِذَا اسْتَأْذَنُوكَ لِبَعْضِ شَأْنِهِمْ فَأْذَن لِّمَن شِئْتَ مِنْهُمْ وَاسْتَغْفِرْ لَهُمُ اللَّهَ ۚ إِنَّ اللَّهَ غَفُورٌ رَّحِيمٌ(62)

Quả thật những người có đức tin thực sự chính là những người đã tin nơi Allah và Thiên Sứ của Ngài và khi ở cùng với Y (Thiên Sứ) để bàn công việc chung thì họ không ngang nhiên bỏ đi trừ phi đã xin phép Y. Quả thật, những ai xin phép Y là những người thực sự có đức tin nơi Allah và Thiên Sứ của Ngài. Do đó, nếu họ xin phép Ngươi (hỡi Thiên Sứ Muhammad) để đi lo việc riêng của họ thì Ngươi hãy chấp thuận cho ai Ngươi muốn trong số họ và Ngươi hãy cầu xin Allah tha thứ cho họ bởi Allah là Đấng hằng tha thứ, Đấng Khoan Dung.

لَّا تَجْعَلُوا دُعَاءَ الرَّسُولِ بَيْنَكُمْ كَدُعَاءِ بَعْضِكُم بَعْضًا ۚ قَدْ يَعْلَمُ اللَّهُ الَّذِينَ يَتَسَلَّلُونَ مِنكُمْ لِوَاذًا ۚ فَلْيَحْذَرِ الَّذِينَ يُخَالِفُونَ عَنْ أَمْرِهِ أَن تُصِيبَهُمْ فِتْنَةٌ أَوْ يُصِيبَهُمْ عَذَابٌ أَلِيمٌ(63)

Các ngươi chớ coi việc Thiên Sứ (Muhammad) mời gọi các ngươi giống như việc các ngươi mời gọi nhau.(3) Quả thật, Allah biết rõ những ai trong các ngươi lén lút bỏ đi. Do đó, những ai trái lệnh của Y hãy coi chừng gặp phải họa hoặc gặp phải sự trừng phạt đau đớn.

أَلَا إِنَّ لِلَّهِ مَا فِي السَّمَاوَاتِ وَالْأَرْضِ ۖ قَدْ يَعْلَمُ مَا أَنتُمْ عَلَيْهِ وَيَوْمَ يُرْجَعُونَ إِلَيْهِ فَيُنَبِّئُهُم بِمَا عَمِلُوا ۗ وَاللَّهُ بِكُلِّ شَيْءٍ عَلِيمٌ(64)

Quả thật, vạn vật trong các tầng trời và trái đất đều là của Allah. Ngài chắc chắn biết rõ điều mà các ngươi định làm, (và rồi đây) vào một Ngày họ sẽ được trở về trình diện Ngài để Ngài cho họ biết về những gì họ đã làm. Quả thật, Allah biết rõ tất cả mọi thứ.


المزيد من السور باللغة الفيتنامية:

سورة البقرة آل عمران سورة النساء
سورة المائدة سورة يوسف سورة ابراهيم
سورة الحجر سورة الكهف سورة مريم
سورة السجدة سورة يس سورة الدخان
سورة النجم سورة الرحمن سورة الواقعة
سورة الحشر سورة الملك سورة الحاقة

تحميل سورة النور بصوت أشهر القراء :

قم باختيار القارئ للاستماع و تحميل سورة النور كاملة بجودة عالية
سورة النور أحمد العجمي
أحمد العجمي
سورة النور خالد الجليل
خالد الجليل
سورة النور سعد الغامدي
سعد الغامدي
سورة النور سعود الشريم
سعود الشريم
سورة النور عبد الباسط عبد الصمد
عبد الباسط
سورة النور عبد الله عواد الجهني
عبد الله الجهني
سورة النور علي الحذيفي
علي الحذيفي
سورة النور فارس عباد
فارس عباد
سورة النور ماهر المعيقلي
ماهر المعيقلي
سورة النور محمد جبريل
محمد جبريل
سورة النور محمد صديق المنشاوي
المنشاوي
سورة النور الحصري
الحصري
سورة النور العفاسي
مشاري العفاسي
سورة النور ناصر القطامي
ناصر القطامي
سورة النور ياسر الدوسري
ياسر الدوسري



Sunday, December 22, 2024

لا تنسنا من دعوة صالحة بظهر الغيب