سورة سبأ بالفيتنامية

  1. استمع للسورة
  2. سور أخرى
  3. ترجمة السورة
القرآن الكريم | ترجمة معاني القرآن | اللغة الفيتنامية | سورة سبأ | Saba - عدد آياتها 54 - رقم السورة في المصحف: 34 - معنى السورة بالإنجليزية: Sheba.

الْحَمْدُ لِلَّهِ الَّذِي لَهُ مَا فِي السَّمَاوَاتِ وَمَا فِي الْأَرْضِ وَلَهُ الْحَمْدُ فِي الْآخِرَةِ ۚ وَهُوَ الْحَكِيمُ الْخَبِيرُ(1)

Alhamdulillah, Đấng mà mọi vật trong các tầng trời và mọi vật trong trái đất đều là của Ngài, Đấng mà mọi lời ca ngợi và tán dương ở Đời Sau đều thuộc về một mình Ngài. Ngài là Đấng Sáng Suốt, Thông Toàn.

يَعْلَمُ مَا يَلِجُ فِي الْأَرْضِ وَمَا يَخْرُجُ مِنْهَا وَمَا يَنزِلُ مِنَ السَّمَاءِ وَمَا يَعْرُجُ فِيهَا ۚ وَهُوَ الرَّحِيمُ الْغَفُورُ(2)

Những gì chui vào lòng đất, những gì nhô lên khỏi mặt đất, những gì rơi xuống từ trên trời và những gì bay lên trời, Ngài đều biết rõ về chúng. Và Ngài là Đấng Hằng Khoan Dung, Hằng Tha Thứ.

وَقَالَ الَّذِينَ كَفَرُوا لَا تَأْتِينَا السَّاعَةُ ۖ قُلْ بَلَىٰ وَرَبِّي لَتَأْتِيَنَّكُمْ عَالِمِ الْغَيْبِ ۖ لَا يَعْزُبُ عَنْهُ مِثْقَالُ ذَرَّةٍ فِي السَّمَاوَاتِ وَلَا فِي الْأَرْضِ وَلَا أَصْغَرُ مِن ذَٰلِكَ وَلَا أَكْبَرُ إِلَّا فِي كِتَابٍ مُّبِينٍ(3)

Những kẻ vô đức tin nói: “Giờ Tận Thế sẽ không xảy đến cho chúng tôi.” Ngươi (hỡi Thiên Sứ) hãy nói với họ: “Không, thề bởi Thượng Đế của Ta, Đấng biết điều vô hình, chắc chắn Giờ Tận Thế sẽ xảy đến cho các người. Không một vật gì trong các tầng trời cũng như không một vật gì trong trái đất nằm ngoài tầm kiểm soát của Ngài, cho dù đó chỉ là sức nặng của một hạt nguyên tử; và không một vật gì dù nhỏ hay lớn hơn (hạt nguyên tử) mà lại không được ghi sẵn trong một Quyển Sổ rõ ràng.”

لِّيَجْزِيَ الَّذِينَ آمَنُوا وَعَمِلُوا الصَّالِحَاتِ ۚ أُولَٰئِكَ لَهُم مَّغْفِرَةٌ وَرِزْقٌ كَرِيمٌ(4)

(Mọi thứ được ghi trong quyển sổ) để Ngài ban thưởng cho những người có đức tin và hành thiện. Họ là những người sẽ được sự tha thứ và được ban cho bổng lộc thật vinh dự (Thiên Đàng).

وَالَّذِينَ سَعَوْا فِي آيَاتِنَا مُعَاجِزِينَ أُولَٰئِكَ لَهُمْ عَذَابٌ مِّن رِّجْزٍ أَلِيمٌ(5)

Những ai cố gắng chống phá các lời mặc khải của TA thì chắc chắn sẽ phải chịu một sự trừng phạt đau đớn.

وَيَرَى الَّذِينَ أُوتُوا الْعِلْمَ الَّذِي أُنزِلَ إِلَيْكَ مِن رَّبِّكَ هُوَ الْحَقَّ وَيَهْدِي إِلَىٰ صِرَاطِ الْعَزِيزِ الْحَمِيدِ(6)

Những ai được ban cho kiến thức thì thấy những điều được ban xuống cho Ngươi (hỡi Thiên Sứ) từ Thượng Đế của Ngươi là Chân Lý và hướng dẫn (nhân loại) đến con đường của Đấng Toàn Năng, Đáng Ca Tụng.

وَقَالَ الَّذِينَ كَفَرُوا هَلْ نَدُلُّكُمْ عَلَىٰ رَجُلٍ يُنَبِّئُكُمْ إِذَا مُزِّقْتُمْ كُلَّ مُمَزَّقٍ إِنَّكُمْ لَفِي خَلْقٍ جَدِيدٍ(7)

Những kẻ vô đức tin (bảo nhau về Thiên Sứ một cách chế giễu và nhạo báng) nói: “Các người có muốn chúng tôi chỉ cho các người một người đàn ông, Y sẽ nói cho các người biết rằng khi các người (chết đi, thân xác các người) đã hoàn toàn mục rã thì các người chắc chắn sẽ được tạo hóa mới trở lại?!”

أَفْتَرَىٰ عَلَى اللَّهِ كَذِبًا أَم بِهِ جِنَّةٌ ۗ بَلِ الَّذِينَ لَا يُؤْمِنُونَ بِالْآخِرَةِ فِي الْعَذَابِ وَالضَّلَالِ الْبَعِيدِ(8)

(Họ bảo nhau): “Lẽ nào Y đã nói dối cho Allah hay lẽ nào Y bị tâm thần?” Không, những kẻ vô đức tin nơi cõi Đời Sau sẽ bị trừng phạt (vào Ngày Phán Xét) và họ đã lầm lạc rất xa (trên cõi đời này).

أَفَلَمْ يَرَوْا إِلَىٰ مَا بَيْنَ أَيْدِيهِمْ وَمَا خَلْفَهُم مِّنَ السَّمَاءِ وَالْأَرْضِ ۚ إِن نَّشَأْ نَخْسِفْ بِهِمُ الْأَرْضَ أَوْ نُسْقِطْ عَلَيْهِمْ كِسَفًا مِّنَ السَّمَاءِ ۚ إِنَّ فِي ذَٰلِكَ لَآيَةً لِّكُلِّ عَبْدٍ مُّنِيبٍ(9)

Lẽ nào họ không nhìn thấy những gì trước mắt và sau lưng họ từ trời đất?! Nếu muốn, TA đã cho đất nuốt chửng bọn họ hoặc cho một mảnh trời rơi xuống đè bọn họ. Quả thật, nơi sự việc đó là một dấu hiệu cho mỗi người bề tôi biết quay đầu ăn năn sám hối (với Allah).

۞ وَلَقَدْ آتَيْنَا دَاوُودَ مِنَّا فَضْلًا ۖ يَا جِبَالُ أَوِّبِي مَعَهُ وَالطَّيْرَ ۖ وَأَلَنَّا لَهُ الْحَدِيدَ(10)

Quả thật, TA đã ban cho Dawood hồng phúc từ nơi TA, (và TA đã phán với núi non): “Hỡi núi non! Các ngươi hãy cùng với Y tán dương Allah” và chim chóc (TA cũng phán bảo chúng như thế), và TA đã hóa sắt thành mềm cho Y.

أَنِ اعْمَلْ سَابِغَاتٍ وَقَدِّرْ فِي السَّرْدِ ۖ وَاعْمَلُوا صَالِحًا ۖ إِنِّي بِمَا تَعْمَلُونَ بَصِيرٌ(11)

(TA) bảo (Dawood): “Ngươi hãy chế áo giáp và ráp các khoen sắt lại cho thật cân bằng và Ngươi (và con cháu của Ngươi) hãy hành thiện. Quả thật, TA luôn thấy rõ những điều các ngươi làm.”

وَلِسُلَيْمَانَ الرِّيحَ غُدُوُّهَا شَهْرٌ وَرَوَاحُهَا شَهْرٌ ۖ وَأَسَلْنَا لَهُ عَيْنَ الْقِطْرِ ۖ وَمِنَ الْجِنِّ مَن يَعْمَلُ بَيْنَ يَدَيْهِ بِإِذْنِ رَبِّهِ ۖ وَمَن يَزِغْ مِنْهُمْ عَنْ أَمْرِنَا نُذِقْهُ مِنْ عَذَابِ السَّعِيرِ(12)

Và Sulayman (con trai của Dawood), (TA đã ban cho Y khả năng chế ngự) luồng gió; luồng gió lướt đi trong một buổi sáng (nhanh bằng thời gian di chuyển) của một tháng và trong một buổi chiều (nhanh bằng thời gian di chuyển) của một tháng. TA đã ban cho Y một dòng suối đồng thau; và trong loài Jinn có những tên phục dịch cho Y theo phép của Thượng Đế của Y; và nếu tên Jinn nào cãi lệnh TA thì TA sẽ bắt nó nếm lấy hình phạt của Lửa ngọn cháy bùng.

يَعْمَلُونَ لَهُ مَا يَشَاءُ مِن مَّحَارِيبَ وَتَمَاثِيلَ وَجِفَانٍ كَالْجَوَابِ وَقُدُورٍ رَّاسِيَاتٍ ۚ اعْمَلُوا آلَ دَاوُودَ شُكْرًا ۚ وَقَلِيلٌ مِّنْ عِبَادِيَ الشَّكُورُ(13)

Chúng (các tên Jinn hầu dịch cho Sulayman) làm ra cho Y những vật mà Y muốn, từ các cung điện, các hình tượng, những chiếc chén khổng lồ như những bể nước và những chiếc chảo nấu cố định một chỗ. Hỡi dòng dõi của Dawood, các ngươi hãy làm việc với lòng tri ân (TA). Tuy nhiên, chỉ một số ít bầy tôi của TA tỏ lòng biết ơn (TA).

فَلَمَّا قَضَيْنَا عَلَيْهِ الْمَوْتَ مَا دَلَّهُمْ عَلَىٰ مَوْتِهِ إِلَّا دَابَّةُ الْأَرْضِ تَأْكُلُ مِنسَأَتَهُ ۖ فَلَمَّا خَرَّ تَبَيَّنَتِ الْجِنُّ أَن لَّوْ كَانُوا يَعْلَمُونَ الْغَيْبَ مَا لَبِثُوا فِي الْعَذَابِ الْمُهِينِ(14)

Khi TA cho (Sulayman) chết, chẳng có điều gì làm cho loài Jinn phát hiện ra cái chết của Y ngoại trừ côn trùng đất đã ăn mòn chiếc gậy của Y. Cho nên, khi Y ngã xuống, loài Jinn mới vỡ lẽ rằng nếu chúng biết được điều vô hình thì chúng đã không phải ở lại lâu trong sự trừng phạt nhục nhã đó.(1)

لَقَدْ كَانَ لِسَبَإٍ فِي مَسْكَنِهِمْ آيَةٌ ۖ جَنَّتَانِ عَن يَمِينٍ وَشِمَالٍ ۖ كُلُوا مِن رِّزْقِ رَبِّكُمْ وَاشْكُرُوا لَهُ ۚ بَلْدَةٌ طَيِّبَةٌ وَرَبٌّ غَفُورٌ(15)

Quả thật, tại chỗ ở của dân Sheba(2) là một dấu hiệu (cho quyền năng của Allah cũng như cho việc Ngài đã ban ân huệ cho họ). (Tại nơi ở của họ) có hai ngôi vườn nằm bên phải và bên trái. (Allah bảo họ): “Các ngươi hãy ăn bổng lộc của Thượng Đế của các ngươi và hãy biết ơn Ngài; (đây là) một xứ sở tốt đẹp, và (đây là) một Thượng Đế Hằng Tha Thứ (tội lỗi).

فَأَعْرَضُوا فَأَرْسَلْنَا عَلَيْهِمْ سَيْلَ الْعَرِمِ وَبَدَّلْنَاهُم بِجَنَّتَيْهِمْ جَنَّتَيْنِ ذَوَاتَيْ أُكُلٍ خَمْطٍ وَأَثْلٍ وَشَيْءٍ مِّن سِدْرٍ قَلِيلٍ(16)

Nhưng họ đã ngoảnh đi. Vậy nên TA đã gởi một trận lũ (đến trừng phạt họ) từ một con đập, và TA đã thay thế hai ngôi vườn của họ bằng hai ngôi vườn chỉ toàn loại trái đắng, các cây bụi (giông giống loại thánh liễu) và một ít cây táo gai.

ذَٰلِكَ جَزَيْنَاهُم بِمَا كَفَرُوا ۖ وَهَلْ نُجَازِي إِلَّا الْكَفُورَ(17)

Vì tội vong ơn nên TA đã bắt phạt họ như thế. Và TA chỉ trừng phạt những kẻ vong ân.

وَجَعَلْنَا بَيْنَهُمْ وَبَيْنَ الْقُرَى الَّتِي بَارَكْنَا فِيهَا قُرًى ظَاهِرَةً وَقَدَّرْنَا فِيهَا السَّيْرَ ۖ سِيرُوا فِيهَا لَيَالِيَ وَأَيَّامًا آمِنِينَ(18)

Giữa họ (dân của Sheba) và những thị trấn (của Sham) mà TA đã ban phúc, TA đã đặt những thị trấn khác dễ nhìn từ đằng xa và TA sắp đặt nơi đó những chặng đường (ngắn, gần) để họ đi lại dễ dàng; (và TA phán bảo họ): “Các ngươi hãy đi lại (tùy thích) một cách an toàn cả ban đêm lẫn ban ngày qua những địa điểm đó.”

فَقَالُوا رَبَّنَا بَاعِدْ بَيْنَ أَسْفَارِنَا وَظَلَمُوا أَنفُسَهُمْ فَجَعَلْنَاهُمْ أَحَادِيثَ وَمَزَّقْنَاهُمْ كُلَّ مُمَزَّقٍ ۚ إِنَّ فِي ذَٰلِكَ لَآيَاتٍ لِّكُلِّ صَبَّارٍ شَكُورٍ(19)

(Tuy nhiên, họ không hài lòng với những chặng đường gần và ngắn) nên họ nói: “Lạy Thượng Đế của bầy tôi! Xin Ngài làm cho những chặng đường đi lại của bầy tôi dài xa thêm.” Họ đã bất công với chính bản thân họ (qua mong muốn đó). Vậy nên, TA đã lấy họ làm thành những câu chuyện và đã phân tán toàn bộ họ tản mác khắp nơi. Quả thật, trong sự việc đó là những dấu hiệu (bài học) cho từng người kiên nhẫn, biết ơn.

وَلَقَدْ صَدَّقَ عَلَيْهِمْ إِبْلِيسُ ظَنَّهُ فَاتَّبَعُوهُ إِلَّا فَرِيقًا مِّنَ الْمُؤْمِنِينَ(20)

Quả thật, Iblis đã khẳng định sự thật về họ cho điều mà hắn đã phỏng đoán (rằng hắn có thể dắt họ lạc khỏi điều chân lý). Cho nên, họ đã nghe theo hắn ngoại trừ một nhóm trong số những người có đức tin.

وَمَا كَانَ لَهُ عَلَيْهِم مِّن سُلْطَانٍ إِلَّا لِنَعْلَمَ مَن يُؤْمِنُ بِالْآخِرَةِ مِمَّنْ هُوَ مِنْهَا فِي شَكٍّ ۗ وَرَبُّكَ عَلَىٰ كُلِّ شَيْءٍ حَفِيظٌ(21)

(Iblis) không hề có một chút quyền hành nào đối với họ cả mà thật ra đó chỉ nhằm mục đích để TA biết rõ ai là người có đức tin nơi cõi Đời Sau trong số những kẻ mà trong lòng họ vẫn còn sự hoài nghi. Quả thật, Thượng Đế của Ngươi (hỡi Thiên Sứ) là Đấng bảo vệ và giữ gìn tất cả mọi điều.

قُلِ ادْعُوا الَّذِينَ زَعَمْتُم مِّن دُونِ اللَّهِ ۖ لَا يَمْلِكُونَ مِثْقَالَ ذَرَّةٍ فِي السَّمَاوَاتِ وَلَا فِي الْأَرْضِ وَمَا لَهُمْ فِيهِمَا مِن شِرْكٍ وَمَا لَهُ مِنْهُم مِّن ظَهِيرٍ(22)

Ngươi (hỡi Thiên Sứ) hãy nói với họ: “Các ngươi hãy cầu nguyện những kẻ mà các ngươi cho rằng (chúng là thần linh của các ngươi) ngoài Allah. Quả thật, chúng không hề nắm giữ và chi phối bất cứ vật gì trong các tầng trời và trái đất, cho dù đó chỉ là sức nặng của hạt nguyên tử; và chúng không hề có bất cứ phần chia nào trong trời đất này; và trong bọn chúng không hề có bất cứ tên nào là vị ủng hộ của Ngài cả.”

وَلَا تَنفَعُ الشَّفَاعَةُ عِندَهُ إِلَّا لِمَنْ أَذِنَ لَهُ ۚ حَتَّىٰ إِذَا فُزِّعَ عَن قُلُوبِهِمْ قَالُوا مَاذَا قَالَ رَبُّكُمْ ۖ قَالُوا الْحَقَّ ۖ وَهُوَ الْعَلِيُّ الْكَبِيرُ(23)

Ở nơi Ngài (Allah), việc can thiệp sẽ vô ích trừ phi đối với ai mà Ngài đã cho phép. (Sự vĩ đại và tối cao của Ngài là khi Ngài phán thì tất cả các Thiên Thần đều khúm núm sợ hãi) mãi đến khi lòng của họ hết sợ thì họ mới dám lên tiếng hỏi (đại Thiên Thần Jibril): “Thượng Đế của quý vị phán điều gì vậy?” (Jibril) đáp: “Ngài phán điều Chân Lý bởi vì Ngài là Đấng Tối Cao, Vĩ Đại.”

۞ قُلْ مَن يَرْزُقُكُم مِّنَ السَّمَاوَاتِ وَالْأَرْضِ ۖ قُلِ اللَّهُ ۖ وَإِنَّا أَوْ إِيَّاكُمْ لَعَلَىٰ هُدًى أَوْ فِي ضَلَالٍ مُّبِينٍ(24)

Ngươi (hỡi Thiên Sứ) hãy bảo (những kẻ thờ đa thần): “Ai là Đấng ban bổng lộc cho các người từ các tầng trời và trái đất?” Ngươi hãy nói với họ: “Là Allah! Vậy chúng tôi hay các người, ai là những người được hướng dẫn đúng đường và ai là những kẻ lạc lối?”

قُل لَّا تُسْأَلُونَ عَمَّا أَجْرَمْنَا وَلَا نُسْأَلُ عَمَّا تَعْمَلُونَ(25)

Ngươi hãy nói với họ: “Các người sẽ không bị tra hỏi về tội của chúng tôi và chúng tôi cũng sẽ không bị tra hỏi về những gì các người đã làm.”

قُلْ يَجْمَعُ بَيْنَنَا رَبُّنَا ثُمَّ يَفْتَحُ بَيْنَنَا بِالْحَقِّ وَهُوَ الْفَتَّاحُ الْعَلِيمُ(26)

Ngươi hãy nói với họ: “Thượng Đế của chúng ta sẽ triệu tập tất cả chúng ta rồi Ngài sẽ phán xét giữa chúng ta đúng theo chân lý bởi Ngài là Đấng Thẩm Phán Toàn Tri.”

قُلْ أَرُونِيَ الَّذِينَ أَلْحَقْتُم بِهِ شُرَكَاءَ ۖ كَلَّا ۚ بَلْ هُوَ اللَّهُ الْعَزِيزُ الْحَكِيمُ(27)

Ngươi hãy nói với họ: “Các người hãy chỉ cho Ta đâu là những kẻ mà các người đã cho là những vị đối tác ngang vai của (Allah). Chắc chắn sẽ không có ai (là đối tác của Ngài cả) mà chỉ có Ngài là Allah (Đấng Duy Nhất), Ngài là Đấng Toàn Năng, Sáng Suốt.”

وَمَا أَرْسَلْنَاكَ إِلَّا كَافَّةً لِّلنَّاسِ بَشِيرًا وَنَذِيرًا وَلَٰكِنَّ أَكْثَرَ النَّاسِ لَا يَعْلَمُونَ(28)

Và TA (Allah) cử phái Ngươi (hỡi Thiên Sứ) đến chỉ để làm một Người mang tin mừng và một Người cảnh báo cho toàn bộ nhân loại nhưng đa số nhân loại không biết.

وَيَقُولُونَ مَتَىٰ هَٰذَا الْوَعْدُ إِن كُنتُمْ صَادِقِينَ(29)

(Những kẻ thờ đa thần hối thúc sự trừng phạt) bảo: “Lời hứa (về sự trừng phạt) này bao giờ sẽ xảy đến nếu các ngươi nói thật?”

قُل لَّكُم مِّيعَادُ يَوْمٍ لَّا تَسْتَأْخِرُونَ عَنْهُ سَاعَةً وَلَا تَسْتَقْدِمُونَ(30)

Ngươi (hỡi Thiên Sứ) hãy nói với họ: “Cuộc hẹn cho các người đã được định sẵn vào Ngày mà nó sẽ không đến muộn cũng không đến sớm hơn một thời khắc nào.”

وَقَالَ الَّذِينَ كَفَرُوا لَن نُّؤْمِنَ بِهَٰذَا الْقُرْآنِ وَلَا بِالَّذِي بَيْنَ يَدَيْهِ ۗ وَلَوْ تَرَىٰ إِذِ الظَّالِمُونَ مَوْقُوفُونَ عِندَ رَبِّهِمْ يَرْجِعُ بَعْضُهُمْ إِلَىٰ بَعْضٍ الْقَوْلَ يَقُولُ الَّذِينَ اسْتُضْعِفُوا لِلَّذِينَ اسْتَكْبَرُوا لَوْلَا أَنتُمْ لَكُنَّا مُؤْمِنِينَ(31)

Những kẻ vô đức tin nói: “Chúng tôi sẽ không bao giờ tin vào Qur’an này và cũng không tin vào bất cứ Kinh Sách nào trước Nó.” Nếu Ngươi (hỡi Thiên Sứ) nhìn thấy được tình cảnh của những kẻ làm điều sai quấy bị bắt đứng trước mặt Thượng Đế của họ (thì Ngươi sẽ thấy) họ lời qua tiếng lại trách cứ nhau. Những kẻ yếu thế sẽ nói với những tên cường bạo: “Nếu các người không dẫn chúng tôi lầm lạc thì chúng tôi đã trở thành những người có đức tin rồi!”

قَالَ الَّذِينَ اسْتَكْبَرُوا لِلَّذِينَ اسْتُضْعِفُوا أَنَحْنُ صَدَدْنَاكُمْ عَنِ الْهُدَىٰ بَعْدَ إِذْ جَاءَكُم ۖ بَلْ كُنتُم مُّجْرِمِينَ(32)

Những tên cường bạo đáp lời những kẻ yếu thế, nói: “Há bọn ta đã ngăn cản các ngươi theo chỉ đạo sau khi nó đã đến với các ngươi chăng? Không, chính các ngươi mới là những kẻ tội lỗi.”

وَقَالَ الَّذِينَ اسْتُضْعِفُوا لِلَّذِينَ اسْتَكْبَرُوا بَلْ مَكْرُ اللَّيْلِ وَالنَّهَارِ إِذْ تَأْمُرُونَنَا أَن نَّكْفُرَ بِاللَّهِ وَنَجْعَلَ لَهُ أَندَادًا ۚ وَأَسَرُّوا النَّدَامَةَ لَمَّا رَأَوُا الْعَذَابَ وَجَعَلْنَا الْأَغْلَالَ فِي أَعْنَاقِ الَّذِينَ كَفَرُوا ۚ هَلْ يُجْزَوْنَ إِلَّا مَا كَانُوا يَعْمَلُونَ(33)

Những kẻ yếu thế đáp lời những tên cường bạo: “Đúng vậy, các người đã bày mưu cả đêm lẫn ngày khi bảo chúng tôi vô đức tin nơi Allah và dựng những đối tác ngang vai cùng với Ngài.” (Tất cả) bọn họ sẽ hối hận khi nhìn thấy hình phạt. TA sẽ xiềng những chiếc gông vào cổ của những kẻ vô đức tin. Quả thật bọn họ bị trừng phạt chỉ bởi những điều mà bọn họ đã làm.

وَمَا أَرْسَلْنَا فِي قَرْيَةٍ مِّن نَّذِيرٍ إِلَّا قَالَ مُتْرَفُوهَا إِنَّا بِمَا أُرْسِلْتُم بِهِ كَافِرُونَ(34)

(Quả thật) không một vị cảnh báo nào được TA cử phái đến bất kỳ một thị trấn nào mà lại không bị những kẻ giàu có của thị trấn đó bảo: “Bọn ta không tin nơi thông điệp mà các ngươi mang đến.”

وَقَالُوا نَحْنُ أَكْثَرُ أَمْوَالًا وَأَوْلَادًا وَمَا نَحْنُ بِمُعَذَّبِينَ(35)

(Những kẻ giàu có đó) nói: “Bọn ta có nhiều tiền của và đông con cái, và bọn ta chắc chắn sẽ không bị trừng phạt.”

قُلْ إِنَّ رَبِّي يَبْسُطُ الرِّزْقَ لِمَن يَشَاءُ وَيَقْدِرُ وَلَٰكِنَّ أَكْثَرَ النَّاسِ لَا يَعْلَمُونَ(36)

Ngươi (hỡi Thiên Sứ) hãy nói (với những kẻ mà Allah đã ban cho họ nhiều ân huệ về của cải cũng như con cái): “Quả thật, Thượng Đế của Ta nới rộng hay thu hẹp bổng lộc đối với ai là tùy ý Ngài muốn, tuy nhiên, đa số nhân loại không biết (tất cả mọi sự việc đều được sắp đặt theo sự sáng suốt và anh minh của Ngài).”

وَمَا أَمْوَالُكُمْ وَلَا أَوْلَادُكُم بِالَّتِي تُقَرِّبُكُمْ عِندَنَا زُلْفَىٰ إِلَّا مَنْ آمَنَ وَعَمِلَ صَالِحًا فَأُولَٰئِكَ لَهُمْ جَزَاءُ الضِّعْفِ بِمَا عَمِلُوا وَهُمْ فِي الْغُرُفَاتِ آمِنُونَ(37)

(Các ngươi hãy biết rằng) của cải, con cái của các ngươi không phải là những thứ đưa các ngươi đến gần TA (Allah) hơn, mà chỉ những ai có đức tin và hành thiện thì mới là những người sẽ được ban thưởng gấp đôi cho những điều (tốt) mà họ đã từng làm, và họ sẽ an toàn ở trong những ngôi nhà cao tầng.

وَالَّذِينَ يَسْعَوْنَ فِي آيَاتِنَا مُعَاجِزِينَ أُولَٰئِكَ فِي الْعَذَابِ مُحْضَرُونَ(38)

Những kẻ cố gắng tìm cách phá hỏng các lời mặc khải của TA thì sẽ bị dẫn tới chỗ trừng phạt.

قُلْ إِنَّ رَبِّي يَبْسُطُ الرِّزْقَ لِمَن يَشَاءُ مِنْ عِبَادِهِ وَيَقْدِرُ لَهُ ۚ وَمَا أَنفَقْتُم مِّن شَيْءٍ فَهُوَ يُخْلِفُهُ ۖ وَهُوَ خَيْرُ الرَّازِقِينَ(39)

Ngươi (hỡi Thiên Sứ) hãy nói: “Thượng Đế của Ta nới rộng hay thu hẹp bổng lộc đối với ai trong số bầy tôi của Ngài là tùy ý Ngài muốn. Bất cứ thứ gì các người đã chi dùng (cho con đường chính nghĩa của Ngài) thì đều sẽ được Ngài hoàn lại, và Ngài là Đấng ban bổng lộc tốt nhất.”

وَيَوْمَ يَحْشُرُهُمْ جَمِيعًا ثُمَّ يَقُولُ لِلْمَلَائِكَةِ أَهَٰؤُلَاءِ إِيَّاكُمْ كَانُوا يَعْبُدُونَ(40)

Vào Ngày mà Ngài (Allah) triệu tập tất cả bọn họ rồi phán bảo các Thiên Thần: “Có phải những kẻ này đã từng tôn thờ các ngươi?”

قَالُوا سُبْحَانَكَ أَنتَ وَلِيُّنَا مِن دُونِهِم ۖ بَلْ كَانُوا يَعْبُدُونَ الْجِنَّ ۖ أَكْثَرُهُم بِهِم مُّؤْمِنُونَ(41)

(Các Thiên Thần) bẩm: “Thật quang vinh thay Ngài, Ngài là Đấng Chủ Nhân của bầy tôi chứ không phải họ. Họ không thờ bầy tôi mà họ thờ Jinn. Đa số bọn họ đã tin nơi Jinn.”

فَالْيَوْمَ لَا يَمْلِكُ بَعْضُكُمْ لِبَعْضٍ نَّفْعًا وَلَا ضَرًّا وَنَقُولُ لِلَّذِينَ ظَلَمُوا ذُوقُوا عَذَابَ النَّارِ الَّتِي كُنتُم بِهَا تُكَذِّبُونَ(42)

Vào Ngày mà không ai được quyền giúp đỡ ai cũng như không ai có thể gây hại được cho ai, TA sẽ phán bảo những kẻ làm điều sai quấy: “Các ngươi hãy nếm lấy hình phạt của Hỏa Ngục, cái các ngươi đã từng phủ nhận Nó.”

وَإِذَا تُتْلَىٰ عَلَيْهِمْ آيَاتُنَا بَيِّنَاتٍ قَالُوا مَا هَٰذَا إِلَّا رَجُلٌ يُرِيدُ أَن يَصُدَّكُمْ عَمَّا كَانَ يَعْبُدُ آبَاؤُكُمْ وَقَالُوا مَا هَٰذَا إِلَّا إِفْكٌ مُّفْتَرًى ۚ وَقَالَ الَّذِينَ كَفَرُوا لِلْحَقِّ لَمَّا جَاءَهُمْ إِنْ هَٰذَا إِلَّا سِحْرٌ مُّبِينٌ(43)

Và khi các lời mặc khải rõ ràng của TA được đọc ra cho họ thì họ nói: “Người đàn ông này chỉ muốn cản trở các người tôn thờ những thần linh mà cha mẹ của các người đã tôn thờ mà thôi.” Họ nói: “Đây thật ra chỉ là điều giả dối khéo bịa đặt.” Và những kẻ vô đức tin nói về chân lý khi nó đến với họ: “Đây rõ ràng chỉ là bùa mê hoặc.”

وَمَا آتَيْنَاهُم مِّن كُتُبٍ يَدْرُسُونَهَا ۖ وَمَا أَرْسَلْنَا إِلَيْهِمْ قَبْلَكَ مِن نَّذِيرٍ(44)

TA (Allah) đã không ban cho họ bất cứ Kinh Sách nào để họ có thể học hỏi; và TA cũng không cử bất cứ người cảnh báo nào đến với họ trước Ngươi cả.

وَكَذَّبَ الَّذِينَ مِن قَبْلِهِمْ وَمَا بَلَغُوا مِعْشَارَ مَا آتَيْنَاهُمْ فَكَذَّبُوا رُسُلِي ۖ فَكَيْفَ كَانَ نَكِيرِ(45)

Những kẻ trước họ đã phủ nhận (chân lý). Quả thật, những gì mà (những kẻ đa thần Quraish) có được (từ tiền của, con cái, sức mạnh) không bằng một phần mười các ân huệ mà TA đã ban cho các thế hệ trước nhưng tất cả các thế hệ trước đều phủ nhận các vị Sứ Giả của TA. Bởi thế, (Ngươi – Thiên Sứ hãy xem) sự trừng phạt của TA dành cho họ đã khủng khiếp thế nào.

۞ قُلْ إِنَّمَا أَعِظُكُم بِوَاحِدَةٍ ۖ أَن تَقُومُوا لِلَّهِ مَثْنَىٰ وَفُرَادَىٰ ثُمَّ تَتَفَكَّرُوا ۚ مَا بِصَاحِبِكُم مِّن جِنَّةٍ ۚ إِنْ هُوَ إِلَّا نَذِيرٌ لَّكُم بَيْنَ يَدَيْ عَذَابٍ شَدِيدٍ(46)

Ngươi (hỡi Thiên Sứ) hãy nói với (những kẻ thờ đa thần Quraish): “Ta chỉ khuyên các người một điều: các người hãy vì Allah mà đứng lên từng cặp hay từng người rồi suy ngẫm, (chắc chắn các người sẽ thấy) người bạn của các người (Muhammad) không phải là một gã điên mà đích thực là một vị cảnh báo các người về một sự trừng phạt khủng khiếp sắp đến.”

قُلْ مَا سَأَلْتُكُم مِّنْ أَجْرٍ فَهُوَ لَكُمْ ۖ إِنْ أَجْرِيَ إِلَّا عَلَى اللَّهِ ۖ وَهُوَ عَلَىٰ كُلِّ شَيْءٍ شَهِيدٌ(47)

Ngươi (hỡi Thiên Sứ) hãy nói với (những kẻ thờ đa thần Quraish): “Ta không hề đòi các người bất cứ phần thưởng nào bởi phần thưởng của Ta là do Allah ban cho và Ngài là Đấng chứng giám tất cả mọi thứ.”

قُلْ إِنَّ رَبِّي يَقْذِفُ بِالْحَقِّ عَلَّامُ الْغُيُوبِ(48)

Ngươi (hỡi Thiên Sứ) hãy nói: “Quả thật, Thượng Đế của Ta ban Chân Lý xuống (để loại bỏ điều ngụy tạo) và Ngài là Đấng Thông Toàn mọi điều vô hình.”

قُلْ جَاءَ الْحَقُّ وَمَا يُبْدِئُ الْبَاطِلُ وَمَا يُعِيدُ(49)

Ngươi (hỡi Thiên Sứ) hãy nói: “Chân lý đã đến thì sự ngụy tạo không thể bắt đầu (bất cứ điều gì) cũng như không thể phục hồi được.”

قُلْ إِن ضَلَلْتُ فَإِنَّمَا أَضِلُّ عَلَىٰ نَفْسِي ۖ وَإِنِ اهْتَدَيْتُ فَبِمَا يُوحِي إِلَيَّ رَبِّي ۚ إِنَّهُ سَمِيعٌ قَرِيبٌ(50)

Ngươi (hỡi Thiên Sứ) hãy nói với (những kẻ thờ đa thần Quraish): “Nếu Ta lầm lạc thì thật ra chỉ bản thân Ta lầm lạc mà thôi nhưng nếu Ta được hướng dẫn thì đó là do những gì mà Thượng Đế của Ta đã mặc khải cho Ta. Quả thật Ngài hằng nghe và Ngài ở gần kề.”

وَلَوْ تَرَىٰ إِذْ فَزِعُوا فَلَا فَوْتَ وَأُخِذُوا مِن مَّكَانٍ قَرِيبٍ(51)

Nếu Ngươi (hỡi Thiên Sứ) có thể nhìn thấy được tình cảnh bọn họ sợ hãi (khi nhìn thấy sự trừng phạt), bọn họ vô phương trốn thoát và sẽ bị túm bắt từ một nơi rất gần,

وَقَالُوا آمَنَّا بِهِ وَأَنَّىٰ لَهُمُ التَّنَاوُشُ مِن مَّكَانٍ بَعِيدٍ(52)

Thì bọn họ nói: “Chúng tôi giờ đây đã có đức tin”, tuy nhiên, làm sao bọn họ có thể nhận được đức tin từ một nơi quá xa xôi!

وَقَدْ كَفَرُوا بِهِ مِن قَبْلُ ۖ وَيَقْذِفُونَ بِالْغَيْبِ مِن مَّكَانٍ بَعِيدٍ(53)

Quả thật, họ đã phủ nhận chân lý từ trước và họ đã thường phỏng đoán về điều vô hình từ một nơi xa.

وَحِيلَ بَيْنَهُمْ وَبَيْنَ مَا يَشْتَهُونَ كَمَا فُعِلَ بِأَشْيَاعِهِم مِّن قَبْلُ ۚ إِنَّهُمْ كَانُوا فِي شَكٍّ مُّرِيبٍ(54)

Giữa họ và những điều mà họ mong ước có một bức màn ngăn cách, tương tự trường hợp đã xảy ra cho những kẻ như họ trong quá khứ. Quả thật, họ là đám người đã luôn ở trong tình trạng hoài nghi.


المزيد من السور باللغة الفيتنامية:

سورة البقرة آل عمران سورة النساء
سورة المائدة سورة يوسف سورة ابراهيم
سورة الحجر سورة الكهف سورة مريم
سورة السجدة سورة يس سورة الدخان
سورة النجم سورة الرحمن سورة الواقعة
سورة الحشر سورة الملك سورة الحاقة

تحميل سورة سبأ بصوت أشهر القراء :

قم باختيار القارئ للاستماع و تحميل سورة سبأ كاملة بجودة عالية
سورة سبأ أحمد العجمي
أحمد العجمي
سورة سبأ خالد الجليل
خالد الجليل
سورة سبأ سعد الغامدي
سعد الغامدي
سورة سبأ سعود الشريم
سعود الشريم
سورة سبأ عبد الباسط عبد الصمد
عبد الباسط
سورة سبأ عبد الله عواد الجهني
عبد الله الجهني
سورة سبأ علي الحذيفي
علي الحذيفي
سورة سبأ فارس عباد
فارس عباد
سورة سبأ ماهر المعيقلي
ماهر المعيقلي
سورة سبأ محمد جبريل
محمد جبريل
سورة سبأ محمد صديق المنشاوي
المنشاوي
سورة سبأ الحصري
الحصري
سورة سبأ العفاسي
مشاري العفاسي
سورة سبأ ناصر القطامي
ناصر القطامي
سورة سبأ ياسر الدوسري
ياسر الدوسري



Thursday, November 21, 2024

لا تنسنا من دعوة صالحة بظهر الغيب