سورة النمل بالفيتنامية

  1. استمع للسورة
  2. سور أخرى
  3. ترجمة السورة
القرآن الكريم | ترجمة معاني القرآن | اللغة الفيتنامية | سورة النمل | Naml - عدد آياتها 93 - رقم السورة في المصحف: 27 - معنى السورة بالإنجليزية: The Ants.

طس ۚ تِلْكَ آيَاتُ الْقُرْآنِ وَكِتَابٍ مُّبِينٍ(1)

Ta. Sin. Đây là những câu Kinh Qur’an, một Kinh Sách rõ ràng (không mơ hồ và thần bí).

هُدًى وَبُشْرَىٰ لِلْمُؤْمِنِينَ(2)

Một nguồn Chỉ Đạo và tin mừng cho những người có đức tin.

الَّذِينَ يُقِيمُونَ الصَّلَاةَ وَيُؤْتُونَ الزَّكَاةَ وَهُم بِالْآخِرَةِ هُمْ يُوقِنُونَ(3)

Những ai chu đáo dâng lễ nguyện Salah, xuất Zakat và tin kiên định nơi cõi Đời Sau.

إِنَّ الَّذِينَ لَا يُؤْمِنُونَ بِالْآخِرَةِ زَيَّنَّا لَهُمْ أَعْمَالَهُمْ فَهُمْ يَعْمَهُونَ(4)

Còn đối với những ai không có đức tin nơi cõi Đời Sau, TA (Allah) đã khiến cho việc làm của họ tỏ ra đẹp đẽ trong mắt của họ để họ cứ vẩn vơ lang thang.

أُولَٰئِكَ الَّذِينَ لَهُمْ سُوءُ الْعَذَابِ وَهُمْ فِي الْآخِرَةِ هُمُ الْأَخْسَرُونَ(5)

Những kẻ đó sẽ phải chịu một sự trừng phạt nhục nhã và họ sẽ là đám người thất bại thảm hại ở Đời Sau.

وَإِنَّكَ لَتُلَقَّى الْقُرْآنَ مِن لَّدُنْ حَكِيمٍ عَلِيمٍ(6)

Quả thật Ngươi (Thiên Sứ Muhammad) đã tiếp thu Qur’an từ Đấng Anh Minh, Toàn Tri.

إِذْ قَالَ مُوسَىٰ لِأَهْلِهِ إِنِّي آنَسْتُ نَارًا سَآتِيكُم مِّنْهَا بِخَبَرٍ أَوْ آتِيكُم بِشِهَابٍ قَبَسٍ لَّعَلَّكُمْ تَصْطَلُونَ(7)

(Ngươi hãy nhớ lại) khi Musa bảo người nhà của Y: “Ta đã nhìn thấy một ngọn lửa ở đằng xa, Ta sẽ mang về cho các người tin tức từ chỗ ngọn lửa đó hoặc có thể Ta sẽ mang về cho các người một khúc củi cháy để các người sưởi ấm.”

فَلَمَّا جَاءَهَا نُودِيَ أَن بُورِكَ مَن فِي النَّارِ وَمَنْ حَوْلَهَا وَسُبْحَانَ اللَّهِ رَبِّ الْعَالَمِينَ(8)

Rồi khi (Musa) đến chỗ ngọn lửa thì có tiếng gọi, bảo: “Phúc cho ai đang ở gần lửa và cho ai đang ở xung quanh nó; và quang vinh và trong sạch thay Allah, Thượng Đế của toàn vũ trụ và vạn vật.”

يَا مُوسَىٰ إِنَّهُ أَنَا اللَّهُ الْعَزِيزُ الْحَكِيمُ(9)

“Hỡi Musa, TA chính là Allah, Đấng Quyền Lực, Đấng Sáng Suốt.”

وَأَلْقِ عَصَاكَ ۚ فَلَمَّا رَآهَا تَهْتَزُّ كَأَنَّهَا جَانٌّ وَلَّىٰ مُدْبِرًا وَلَمْ يُعَقِّبْ ۚ يَا مُوسَىٰ لَا تَخَفْ إِنِّي لَا يَخَافُ لَدَيَّ الْمُرْسَلُونَ(10)

“Ngươi hãy ném chiếc gậy của Ngươi xuống.” (Musa liền làm theo) nhưng khi thấy nó động đậy giống như một con rắn, Y liền bỏ chạy không dám quay lại nhìn. (TA – Allah phán bảo Y): “Hỡi Musa, Ngươi đừng hoảng sợ, bởi chưa từng có vị Thiên Sứ nào hoảng sợ trước mặt TA cả.”

إِلَّا مَن ظَلَمَ ثُمَّ بَدَّلَ حُسْنًا بَعْدَ سُوءٍ فَإِنِّي غَفُورٌ رَّحِيمٌ(11)

“Ngoại trừ những ai đã bất công với bản thân, tuy nhiên, sau đó họ làm điều thiện để chuộc lỗi lầm thì quả thật TA là Đấng Hằng Tha Thứ, Hằng Khoan Dung.”

وَأَدْخِلْ يَدَكَ فِي جَيْبِكَ تَخْرُجْ بَيْضَاءَ مِنْ غَيْرِ سُوءٍ ۖ فِي تِسْعِ آيَاتٍ إِلَىٰ فِرْعَوْنَ وَقَوْمِهِ ۚ إِنَّهُمْ كَانُوا قَوْمًا فَاسِقِينَ(12)

“Ngươi hãy cho bàn tay Ngươi vào lồng ngực mình, khi rút ra bàn tay Ngươi sẽ trở nên trắng toát nhưng không phải là bệnh. Đó là một trong số chín phép lạ(1), Ngươi hãy mang đi trình bày cho Pha-ra-ông và đám thuộc hạ của hắn. Quả thật chúng là một đám người ương ngạnh, đại nghịch và bất tuân.”

فَلَمَّا جَاءَتْهُمْ آيَاتُنَا مُبْصِرَةً قَالُوا هَٰذَا سِحْرٌ مُّبِينٌ(13)

Nhưng khi những phép lạ của TA được mang đến cho chúng để chúng tận mắt chứng kiến thì chúng bảo: “Đây rõ ràng là một trò ảo thuật!”

وَجَحَدُوا بِهَا وَاسْتَيْقَنَتْهَا أَنفُسُهُمْ ظُلْمًا وَعُلُوًّا ۚ فَانظُرْ كَيْفَ كَانَ عَاقِبَةُ الْمُفْسِدِينَ(14)

Chúng đã chống đối và ngạo mạn mặc dù trong thâm tâm chúng đã thừa nhận (các phép lạ đó là sự thật). Bởi vậy, Ngươi hãy nhìn xem những kẻ thối nát đã gặp phải hậu quả như thế nào.

وَلَقَدْ آتَيْنَا دَاوُودَ وَسُلَيْمَانَ عِلْمًا ۖ وَقَالَا الْحَمْدُ لِلَّهِ الَّذِي فَضَّلَنَا عَلَىٰ كَثِيرٍ مِّنْ عِبَادِهِ الْمُؤْمِنِينَ(15)

Quả thật, TA đã ban cho Dawood (David) và Sulayman (Solomon) nguồn kiến thức, và cả hai nói: Alhamdulillah, Đấng đã ưu đãi bầy tôi nhiều hơn đám bề tôi có đức tin khác của Ngài.”

وَوَرِثَ سُلَيْمَانُ دَاوُودَ ۖ وَقَالَ يَا أَيُّهَا النَّاسُ عُلِّمْنَا مَنطِقَ الطَّيْرِ وَأُوتِينَا مِن كُلِّ شَيْءٍ ۖ إِنَّ هَٰذَا لَهُوَ الْفَضْلُ الْمُبِينُ(16)

Sulayman đã kế thừa Dawood, Y bảo: “Hỡi nhân loại, Ta đã được dạy cho kiến thức về tiếng nói của loài chim và đã được ban cho đủ mọi thứ và đây rõ ràng là một hồng phúc.”

وَحُشِرَ لِسُلَيْمَانَ جُنُودُهُ مِنَ الْجِنِّ وَالْإِنسِ وَالطَّيْرِ فَهُمْ يُوزَعُونَ(17)

Đoàn quân của Sulayman gồm Jinn, con người và chim chóc đã được triệu tập trước mặt Y theo đội ngũ chỉnh tề.

حَتَّىٰ إِذَا أَتَوْا عَلَىٰ وَادِ النَّمْلِ قَالَتْ نَمْلَةٌ يَا أَيُّهَا النَّمْلُ ادْخُلُوا مَسَاكِنَكُمْ لَا يَحْطِمَنَّكُمْ سُلَيْمَانُ وَجُنُودُهُ وَهُمْ لَا يَشْعُرُونَ(18)

Khi đoàn quân đến một thung lũng của loài kiến (thuộc địa phận của Sham), một con kiến lên tiếng: “Hỡi loài kiến, các ngươi hãy mau lui vào chỗ ở của các ngươi kẻo Sulayman và đoàn quân của Người (vô tình) giẫm nát các ngươi trong lúc họ không hề hay biết.”

فَتَبَسَّمَ ضَاحِكًا مِّن قَوْلِهَا وَقَالَ رَبِّ أَوْزِعْنِي أَنْ أَشْكُرَ نِعْمَتَكَ الَّتِي أَنْعَمْتَ عَلَيَّ وَعَلَىٰ وَالِدَيَّ وَأَنْ أَعْمَلَ صَالِحًا تَرْضَاهُ وَأَدْخِلْنِي بِرَحْمَتِكَ فِي عِبَادِكَ الصَّالِحِينَ(19)

Lấy làm vui thích trước lời nói của kiến, Sulayman mỉm cười và khấn vái: “Lạy Thượng Đế của bề tôi, xin Ngài hãy khiến cho bề tôi biết tạ ơn Ngài về những ân huệ mà Ngài đã ban cho bề tôi, cho cha mẹ của bề tôi, hãy khiến bề tôi làm việc thiện hồng làm hài lòng Ngài và xin lấy đức khoan dung của Ngài mà thâu nhận bề tôi vào đám bầy tôi sùng đạo của Ngài.”

وَتَفَقَّدَ الطَّيْرَ فَقَالَ مَا لِيَ لَا أَرَى الْهُدْهُدَ أَمْ كَانَ مِنَ الْغَائِبِينَ(20)

Rồi khi (Sulayman) kiểm tra đoàn chim, Y bảo: “Sao Ta không thấy con Hudhud(2) đâu cả, phải chăng nó vắng mặt?”

لَأُعَذِّبَنَّهُ عَذَابًا شَدِيدًا أَوْ لَأَذْبَحَنَّهُ أَوْ لَيَأْتِيَنِّي بِسُلْطَانٍ مُّبِينٍ(21)

“Ta chắc chắn sẽ phạt nó thật nặng hoặc Ta sẽ giết nó hoặc nó sẽ phải cho Ta biết lý do rõ ràng (về việc nó đã vắng mặt).”

فَمَكَثَ غَيْرَ بَعِيدٍ فَقَالَ أَحَطتُ بِمَا لَمْ تُحِطْ بِهِ وَجِئْتُكَ مِن سَبَإٍ بِنَبَإٍ يَقِينٍ(22)

Không dám chậm trễ, con chim liền vội vàng bay về thưa (với Sulayman): “Hạ thần đã phát hiện ra một điều mà bệ hạ chưa biết và hạ thần đã mang về cho bệ hạ một nguồn tin chắc chắn từ xứ Saba (Sheba).”

إِنِّي وَجَدتُّ امْرَأَةً تَمْلِكُهُمْ وَأُوتِيَتْ مِن كُلِّ شَيْءٍ وَلَهَا عَرْشٌ عَظِيمٌ(23)

“Hạ thần đã phát hiện thấy có một nữ vương cai trị dân chúng, nữ vương đó đã được cung phụng đầy đủ mọi thứ và làm chủ một ngai vương vĩ đại.”

وَجَدتُّهَا وَقَوْمَهَا يَسْجُدُونَ لِلشَّمْسِ مِن دُونِ اللَّهِ وَزَيَّنَ لَهُمُ الشَّيْطَانُ أَعْمَالَهُمْ فَصَدَّهُمْ عَنِ السَّبِيلِ فَهُمْ لَا يَهْتَدُونَ(24)

“Hạ thần thấy nữ vương đó cùng dân chúng của mình quỳ lạy mặt trời thay vì Allah. Shaytan đã quyến rũ họ khiến họ thích thú với việc làm của mình, hắn đã ngăn cản họ xa lánh con đường Chân Lý nên họ không được hướng dẫn.”

أَلَّا يَسْجُدُوا لِلَّهِ الَّذِي يُخْرِجُ الْخَبْءَ فِي السَّمَاوَاتِ وَالْأَرْضِ وَيَعْلَمُ مَا تُخْفُونَ وَمَا تُعْلِنُونَ(25)

“Để họ không quỳ lạy Allah, Đấng trưng bày những điều bí mật trong các tầng trời và trái đất, Đấng biết rõ mọi điều quí ngài giấu kín cũng như những điều quí ngài phơi bày.”

اللَّهُ لَا إِلَٰهَ إِلَّا هُوَ رَبُّ الْعَرْشِ الْعَظِيمِ ۩(26)

“Allah là Đấng mà Không có Thượng Đế (đích thực) nào khác ngoài Ngài. Ngài là Đấng Chủ Nhân của chiếc Ngai Vương vĩ đại.”

۞ قَالَ سَنَنظُرُ أَصَدَقْتَ أَمْ كُنتَ مِنَ الْكَاذِبِينَ(27)

(Sulayman) nói với (con Hudhud): “Ta sẽ xem nhà ngươi nói thật hay nhà ngươi là một tên nói dối.”

اذْهَب بِّكِتَابِي هَٰذَا فَأَلْقِهْ إِلَيْهِمْ ثُمَّ تَوَلَّ عَنْهُمْ فَانظُرْ مَاذَا يَرْجِعُونَ(28)

“Nhà ngươi hãy mang bức thư này của Ta ném cho họ rồi lánh sang một bên để lắng nghe họ phúc đáp điều gì (về bức thư của Ta).”

قَالَتْ يَا أَيُّهَا الْمَلَأُ إِنِّي أُلْقِيَ إِلَيَّ كِتَابٌ كَرِيمٌ(29)

(Nữ Vương nhận được bức thư) bảo: “Hỡi các tướng lĩnh, trẫm vừa nhận được một bức thư khả kính.”

إِنَّهُ مِن سُلَيْمَانَ وَإِنَّهُ بِسْمِ اللَّهِ الرَّحْمَٰنِ الرَّحِيمِ(30)

“Nó đến từ Sulayman, nó bắt đầu bằng câu: Bismillahir rohmanir rohim (Nhân Danh Allah, Đấng Độ Lượng, Đấng Khoan Dung)”.

أَلَّا تَعْلُوا عَلَيَّ وَأْتُونِي مُسْلِمِينَ(31)

“(Nội dung của nó:) Các ngươi chớ cao ngạo đối với Ta và hãy đến trình diện Ta như một người Muslim (thần phục Allah).”

قَالَتْ يَا أَيُّهَا الْمَلَأُ أَفْتُونِي فِي أَمْرِي مَا كُنتُ قَاطِعَةً أَمْرًا حَتَّىٰ تَشْهَدُونِ(32)

(Nữ Vương) nói (với các chư thần): “Hỡi các chư khanh, các chư khanh hãy cố vấn cho trẫm trong sự việc này. Trẫm không hề tự quyết định lấy bất kỳ sự việc nào mà không có mặt của các khanh cả.”

قَالُوا نَحْنُ أُولُو قُوَّةٍ وَأُولُو بَأْسٍ شَدِيدٍ وَالْأَمْرُ إِلَيْكِ فَانظُرِي مَاذَا تَأْمُرِينَ(33)

(Các quần thần) tâu: “Chúng ta vốn hùng mạnh, dày dặn kinh nghiệm chinh chiến, tuy nhiên, quyền quyết định là ở nơi bệ hạ. Xin bệ hạ xem xét mà ra lệnh.”

قَالَتْ إِنَّ الْمُلُوكَ إِذَا دَخَلُوا قَرْيَةً أَفْسَدُوهَا وَجَعَلُوا أَعِزَّةَ أَهْلِهَا أَذِلَّةً ۖ وَكَذَٰلِكَ يَفْعَلُونَ(34)

(Nữ Vương) bảo: “(Theo trẫm thấy), các vua chúa khi tiến vào một thị trấn nào đó (với ý định xâm lăng) thì họ sẽ tàn phá nó và bắt những người quyền thế nhất của nó xuống làm thứ dân thấp hèn nhất. Họ luôn làm như vậy (khi đã chiếm được nó).”

وَإِنِّي مُرْسِلَةٌ إِلَيْهِم بِهَدِيَّةٍ فَنَاظِرَةٌ بِمَ يَرْجِعُ الْمُرْسَلُونَ(35)

“Trẫm quyết định sai sứ thần mang lễ vật đi triều cống họ và đợi xem các sứ thần sẽ mang điều phúc đáp gì trở về.”

فَلَمَّا جَاءَ سُلَيْمَانَ قَالَ أَتُمِدُّونَنِ بِمَالٍ فَمَا آتَانِيَ اللَّهُ خَيْرٌ مِّمَّا آتَاكُم بَلْ أَنتُم بِهَدِيَّتِكُمْ تَفْرَحُونَ(36)

Khi các sứ thần đến yết kiến Sulayman, Y bảo họ: “Các ngươi định làm cho Ta giàu thêm chăng? Những gì Allah ban cho Ta tốt hơn những thứ Ngài ban cho các ngươi. Chắc các ngươi lấy làm vui thích với những cống vật của các ngươi lắm?”

ارْجِعْ إِلَيْهِمْ فَلَنَأْتِيَنَّهُم بِجُنُودٍ لَّا قِبَلَ لَهُم بِهَا وَلَنُخْرِجَنَّهُم مِّنْهَا أَذِلَّةً وَهُمْ صَاغِرُونَ(37)

“Các ngươi hãy trở về tâu lại với họ, Ta sẽ đem quân đến hỏi tội họ và chắc chắn họ sẽ không bao giờ địch nổi, Ta sẽ đuổi họ ra khỏi nơi đó một cách nhục nhã và chắc chắn họ sẽ phải quy hàng một cách hèn hạ.”

قَالَ يَا أَيُّهَا الْمَلَأُ أَيُّكُمْ يَأْتِينِي بِعَرْشِهَا قَبْلَ أَن يَأْتُونِي مُسْلِمِينَ(38)

(Sulayman) hỏi (các tướng chỉ huy các đoàn quân): “Hỡi các tướng lĩnh, ai trong các ngươi có thể mang ngai vàng của nữ vương kia đến cho Ta trước khi họ đến qui hàng Ta?”

قَالَ عِفْرِيتٌ مِّنَ الْجِنِّ أَنَا آتِيكَ بِهِ قَبْلَ أَن تَقُومَ مِن مَّقَامِكَ ۖ وَإِنِّي عَلَيْهِ لَقَوِيٌّ أَمِينٌ(39)

(Sulayman vừa dứt lời) thì ‘Ifrit, một tên thuộc loài Jinn liền tâu: “Hạ thần sẽ mang nó về cho bệ hạ trước khi bệ hạ rời khỏi chỗ ngồi của bệ hạ. Hạ thần thực sự đủ mạnh và đáng tin cho việc đó.”

قَالَ الَّذِي عِندَهُ عِلْمٌ مِّنَ الْكِتَابِ أَنَا آتِيكَ بِهِ قَبْلَ أَن يَرْتَدَّ إِلَيْكَ طَرْفُكَ ۚ فَلَمَّا رَآهُ مُسْتَقِرًّا عِندَهُ قَالَ هَٰذَا مِن فَضْلِ رَبِّي لِيَبْلُوَنِي أَأَشْكُرُ أَمْ أَكْفُرُ ۖ وَمَن شَكَرَ فَإِنَّمَا يَشْكُرُ لِنَفْسِهِ ۖ وَمَن كَفَرَ فَإِنَّ رَبِّي غَنِيٌّ كَرِيمٌ(40)

(Ngay lúc đó), một người (ngoan đạo) thông thạo Kinh Sách(3) cũng liền tâu (với Sulayman): “Hạ thần sẽ mang nó về cho bệ hạ chỉ trong nháy mắt.” Bởi thế, khi (Sulayman) thấy (chiếc ngai vương) được đặt ngay trước mặt mình, Y bảo: “Đây quả thật là một thiên ân mà Thượng Đế của Ta dùng để thử thách xem Ta là một người biết ơn hay là một kẻ bội ơn. Bởi ai biết tạ ơn thì việc tạ ơn đó chỉ có lợi cho bản thân mình; ngược lại, ai bội ơn thì Thượng Đế của Ta vẫn luôn giàu có và quảng đại.”

قَالَ نَكِّرُوا لَهَا عَرْشَهَا نَنظُرْ أَتَهْتَدِي أَمْ تَكُونُ مِنَ الَّذِينَ لَا يَهْتَدُونَ(41)

(Sulayman) bảo (các chư thần): “Các ngươi hãy cải trang ngai vương của nữ ta để xem nữ ta có nhận ra được nó hay không?”

فَلَمَّا جَاءَتْ قِيلَ أَهَٰكَذَا عَرْشُكِ ۖ قَالَتْ كَأَنَّهُ هُوَ ۚ وَأُوتِينَا الْعِلْمَ مِن قَبْلِهَا وَكُنَّا مُسْلِمِينَ(42)

Khi nữ vương đến yết kiến, (Suylayman) liền hỏi: “Có phải ngai vương của nàng như thế này đúng không?” Nữ vương đáp: “Dường như chính là nó.” (Sulayman) bảo: “Ta (và thần dân của ta) đã được ban cho kiến thức trước nàng và (tất cả bọn ta đều) là những người Muslim (thần phục Allah).”

وَصَدَّهَا مَا كَانَت تَّعْبُدُ مِن دُونِ اللَّهِ ۖ إِنَّهَا كَانَتْ مِن قَوْمٍ كَافِرِينَ(43)

Quả thật những thứ mà nữ vương này đã từng thờ phượng ngoài Allah đã cản trở nữ ta khiến nữ ta trở thành một trong nhóm người vô đức tin.

قِيلَ لَهَا ادْخُلِي الصَّرْحَ ۖ فَلَمَّا رَأَتْهُ حَسِبَتْهُ لُجَّةً وَكَشَفَتْ عَن سَاقَيْهَا ۚ قَالَ إِنَّهُ صَرْحٌ مُّمَرَّدٌ مِّن قَوَارِيرَ ۗ قَالَتْ رَبِّ إِنِّي ظَلَمْتُ نَفْسِي وَأَسْلَمْتُ مَعَ سُلَيْمَانَ لِلَّهِ رَبِّ الْعَالَمِينَ(44)

Rồi có lời nghinh đón nữ ta: “Xin mời nữ vương bước vào cung điện.” Khi nhìn thấy (phần nền của cung điện), nữ ta cứ ngỡ đó là một hồ nước nên đã vén váy lên làm lộ ra cẳng chân của mình. (Sulayman) bảo: “Đây là một cung điện được lót bằng pha lê.” Nữ ta thốt lên: “Lạy Thượng Đế của bề tôi, bề tôi đã bất công với chính bản thân mình, giờ bề tôi xin nguyện cùng với Sulayman thần phục Allah, Thượng Đế của vũ trụ và vạn vật.”

وَلَقَدْ أَرْسَلْنَا إِلَىٰ ثَمُودَ أَخَاهُمْ صَالِحًا أَنِ اعْبُدُوا اللَّهَ فَإِذَا هُمْ فَرِيقَانِ يَخْتَصِمُونَ(45)

Quả thật trước đây, TA (Allah) đã cử đến với người dân Thamud người anh em của họ, Saleh, Y bảo họ: “Các người hãy thờ phượng Allah.” Nhưng lúc đó họ chia thành hai nhóm tranh chấp nhau.

قَالَ يَا قَوْمِ لِمَ تَسْتَعْجِلُونَ بِالسَّيِّئَةِ قَبْلَ الْحَسَنَةِ ۖ لَوْلَا تَسْتَغْفِرُونَ اللَّهَ لَعَلَّكُمْ تُرْحَمُونَ(46)

(Saleh) bảo: “Hỡi dân Ta, sao các người lại cứ hối thúc điều dữ đến trước điều lành? Đáng lẽ ra các người nên cầu xin Allah tha thứ để may ra các người được khoan dung.”

قَالُوا اطَّيَّرْنَا بِكَ وَبِمَن مَّعَكَ ۚ قَالَ طَائِرُكُمْ عِندَ اللَّهِ ۖ بَلْ أَنتُمْ قَوْمٌ تُفْتَنُونَ(47)

Họ (đáp trả lời kêu gọi của Saleh), nói: “Bọn ta được báo rằng Ngươi và những ai cùng Ngươi là một điềm xấu.” (Saleh) bảo họ: “Điềm xấu của các người là do Allah quyết định. Không, các người là một đám người đang bị thử thách.”

وَكَانَ فِي الْمَدِينَةِ تِسْعَةُ رَهْطٍ يُفْسِدُونَ فِي الْأَرْضِ وَلَا يُصْلِحُونَ(48)

Và trong thành phố, có chín người thường hay làm điều thối nát khắp nơi nhưng không chịu sửa mình.

قَالُوا تَقَاسَمُوا بِاللَّهِ لَنُبَيِّتَنَّهُ وَأَهْلَهُ ثُمَّ لَنَقُولَنَّ لِوَلِيِّهِ مَا شَهِدْنَا مَهْلِكَ أَهْلِهِ وَإِنَّا لَصَادِقُونَ(49)

Những kẻ đó bảo: “Chúng ta hãy cùng nhau thề với Allah rằng chúng ta nhất định sẽ giết (Saleh) và gia đình của Y vào ban đêm, rồi chúng ta sẽ nói với người thừa kế của Y rằng chúng ta không hề biết gì đến việc gia đình Y bị thủ tiêu và chúng ta hoàn toàn nói thật.”

وَمَكَرُوا مَكْرًا وَمَكَرْنَا مَكْرًا وَهُمْ لَا يَشْعُرُونَ(50)

Chúng đã mưu toan một kế hoạch và TA cũng đã sắp đặt một kế hoạch trong lúc chúng không hề hay biết.

فَانظُرْ كَيْفَ كَانَ عَاقِبَةُ مَكْرِهِمْ أَنَّا دَمَّرْنَاهُمْ وَقَوْمَهُمْ أَجْمَعِينَ(51)

Ngươi (Thiên Sứ Muhammad) hãy xem mưu đồ của chúng đã để lại kết cuộc cho chúng như thế nào, chẳng phải TA đã tiêu diệt chúng và toàn bộ đám dân của chúng đó sao?!

فَتِلْكَ بُيُوتُهُمْ خَاوِيَةً بِمَا ظَلَمُوا ۗ إِنَّ فِي ذَٰلِكَ لَآيَةً لِّقَوْمٍ يَعْلَمُونَ(52)

Đó, nhà cửa của chúng đã trở nên hoang tàn vì những điều sai trái mà chúng đã làm. Quả thật trong sự việc đó là một bài học cho đám người hiểu biết.

وَأَنجَيْنَا الَّذِينَ آمَنُوا وَكَانُوا يَتَّقُونَ(53)

Và TA (Allah) đã giải cứu những người có đức tin bởi họ là những người ngoan đạo biết sợ TA.

وَلُوطًا إِذْ قَالَ لِقَوْمِهِ أَتَأْتُونَ الْفَاحِشَةَ وَأَنتُمْ تُبْصِرُونَ(54)

Và khi Lut bảo người dân mình: “Lẽ nào các người làm điều ô uế trong lúc các người vẫn còn nhận thức được (điều phải trái)?”

أَئِنَّكُمْ لَتَأْتُونَ الرِّجَالَ شَهْوَةً مِّن دُونِ النِّسَاءِ ۚ بَلْ أَنتُمْ قَوْمٌ تَجْهَلُونَ(55)

“Sao các người lại tìm đến đàn ông để giải tỏa nhục dục thay vì với phụ nữ. Không, các người thực sự là một đám người ngu muội.”

۞ فَمَا كَانَ جَوَابَ قَوْمِهِ إِلَّا أَن قَالُوا أَخْرِجُوا آلَ لُوطٍ مِّن قَرْيَتِكُمْ ۖ إِنَّهُمْ أُنَاسٌ يَتَطَهَّرُونَ(56)

Câu trả lời của đám dân của Y chẳng có gì khác hơn ngoài việc họ nói: “Các người hãy trục xuất gia đình của Lut ra khỏi thành phố của các người! Bởi Họ là những người muốn giữ mình trong sạch!”

فَأَنجَيْنَاهُ وَأَهْلَهُ إِلَّا امْرَأَتَهُ قَدَّرْنَاهَا مِنَ الْغَابِرِينَ(57)

Bởi thế, TA đã giải cứu (Lut) và gia đình của Y ngoại trừ vợ của Y. TA đã sắp đặt cho ả ở lại trong đám người bị tiêu diệt kia.

وَأَمْطَرْنَا عَلَيْهِم مَّطَرًا ۖ فَسَاءَ مَطَرُ الْمُنذَرِينَ(58)

TA đã trừng phạt họ bằng một trận mưa kinh hoàng, đó là một trận mưa thật tồi tệ dành cho đám người từng được cảnh báo.

قُلِ الْحَمْدُ لِلَّهِ وَسَلَامٌ عَلَىٰ عِبَادِهِ الَّذِينَ اصْطَفَىٰ ۗ آللَّهُ خَيْرٌ أَمَّا يُشْرِكُونَ(59)

Ngươi (Thiên Sứ Muhammad) hãy nói: “Alhamdulillah và lời chúc ‘Bằng an’ cho những bầy tôi đã được Ngài chọn. Lẽ nào Allah không phải là Đấng Ưu Việt hơn mọi thứ mà họ đã tổ hợp với Ngài ư?!”

أَمَّنْ خَلَقَ السَّمَاوَاتِ وَالْأَرْضَ وَأَنزَلَ لَكُم مِّنَ السَّمَاءِ مَاءً فَأَنبَتْنَا بِهِ حَدَائِقَ ذَاتَ بَهْجَةٍ مَّا كَانَ لَكُمْ أَن تُنبِتُوا شَجَرَهَا ۗ أَإِلَٰهٌ مَّعَ اللَّهِ ۚ بَلْ هُمْ قَوْمٌ يَعْدِلُونَ(60)

Thế ai đã tạo các tầng trời, trái đất và cho mưa từ trên trời xuống cho các ngươi? Chính TA dùng nó làm mọc ra những mảnh vườn xanh tươi đẹp đẽ, thứ mà các ngươi không thể làm mọc ra bất cứ loại cây nào của chúng cả. Lẽ nào lại có thần linh khác cùng với Allah? Không, họ là một đám người thường dựng lên những thần linh ngụy tạo (không có thực).

أَمَّن جَعَلَ الْأَرْضَ قَرَارًا وَجَعَلَ خِلَالَهَا أَنْهَارًا وَجَعَلَ لَهَا رَوَاسِيَ وَجَعَلَ بَيْنَ الْبَحْرَيْنِ حَاجِزًا ۗ أَإِلَٰهٌ مَّعَ اللَّهِ ۚ بَلْ أَكْثَرُهُمْ لَا يَعْلَمُونَ(61)

Thế ai đã làm trái đất thành một nơi cư ngụ vững chắc và đặt giữa nó những con sông và giữa hai biển một tấm chắn. Lẽ nào lại có thần linh khác cùng với Allah? Không, đa số bọn họ không biết gì.

أَمَّن يُجِيبُ الْمُضْطَرَّ إِذَا دَعَاهُ وَيَكْشِفُ السُّوءَ وَيَجْعَلُكُمْ خُلَفَاءَ الْأَرْضِ ۗ أَإِلَٰهٌ مَّعَ اللَّهِ ۚ قَلِيلًا مَّا تَذَكَّرُونَ(62)

Thế ai đã đáp lại người gặp nguy khi y van xin Ngài, ai đã xua tan mọi điều xấu và làm cho các ngươi thành những người đại diện trên trái đất. Lẽ nào lại có thần linh khác cùng với Allah? Thật ít thay điều các ngươi ghi nhớ!

أَمَّن يَهْدِيكُمْ فِي ظُلُمَاتِ الْبَرِّ وَالْبَحْرِ وَمَن يُرْسِلُ الرِّيَاحَ بُشْرًا بَيْنَ يَدَيْ رَحْمَتِهِ ۗ أَإِلَٰهٌ مَّعَ اللَّهِ ۚ تَعَالَى اللَّهُ عَمَّا يُشْرِكُونَ(63)

Thế ai đã hướng dẫn các ngươi qua những lớp tăm tối của đất liền, của biển cả; và ai gởi những luồng gió loan tin mừng báo trước hồng ân của Ngài (mưa) sắp đến. Lẽ nào lại có thần linh khác cùng với Allah? Allah Tối Thượng, Ngài tối cao vượt bên trên mọi điều mà bọn họ qui cho Ngài.

أَمَّن يَبْدَأُ الْخَلْقَ ثُمَّ يُعِيدُهُ وَمَن يَرْزُقُكُم مِّنَ السَّمَاءِ وَالْأَرْضِ ۗ أَإِلَٰهٌ مَّعَ اللَّهِ ۚ قُلْ هَاتُوا بُرْهَانَكُمْ إِن كُنتُمْ صَادِقِينَ(64)

Thế ai đã khởi tạo rồi tái diễn nó lại, và ai đã cung dưỡng cho các ngươi từ trên trời và cả dưới đất. Lẽ nào lại có thần linh khác cùng với Allah? Ngươi (Thiên Sứ Muhammad) hãy bảo (những kẻ thờ đa thần): “Các người hãy trưng ra các bằng chứng của các người nếu các người nói thật?”

قُل لَّا يَعْلَمُ مَن فِي السَّمَاوَاتِ وَالْأَرْضِ الْغَيْبَ إِلَّا اللَّهُ ۚ وَمَا يَشْعُرُونَ أَيَّانَ يُبْعَثُونَ(65)

Ngươi (Thiên Sứ Muhammad) hãy nói: “Không ai biết rõ điều vô hình trong các tầng trời và trái đất ngoại trừ Allah; và tất cả đều không biết thời khắc nào sẽ được phục sinh trở lại.”

بَلِ ادَّارَكَ عِلْمُهُمْ فِي الْآخِرَةِ ۚ بَلْ هُمْ فِي شَكٍّ مِّنْهَا ۖ بَلْ هُم مِّنْهَا عَمُونَ(66)

Không, (những kẻ thờ đa thần) không thể biết về Đời Sau. Không, bọn họ hoài nghi về điều đó. Không, bọn họ thực sự mù tịt về điều đó.

وَقَالَ الَّذِينَ كَفَرُوا أَإِذَا كُنَّا تُرَابًا وَآبَاؤُنَا أَئِنَّا لَمُخْرَجُونَ(67)

Và những kẻ không có đức tin nói: “Lẽ nào chúng tôi và tổ tiên của chúng tôi khi đã trở thành cát bụi sẽ được phục sinh trở lại?”

لَقَدْ وُعِدْنَا هَٰذَا نَحْنُ وَآبَاؤُنَا مِن قَبْلُ إِنْ هَٰذَا إِلَّا أَسَاطِيرُ الْأَوَّلِينَ(68)

“Quả thật, chúng tôi cũng như ông bà cha mẹ của chúng tôi trước đây đều được hứa điều này, nhưng đó chỉ là truyện cổ tích của người xưa mà thôi (không hề có thật).”

قُلْ سِيرُوا فِي الْأَرْضِ فَانظُرُوا كَيْفَ كَانَ عَاقِبَةُ الْمُجْرِمِينَ(69)

Ngươi (Thiên Sứ Muhammad) hãy nói (với những kẻ phủ nhận sự phục sinh): “Các người hãy đi chu du khắp trái đất để nhìn xem những kẻ tội lỗi đã có kết cuộc như thế nào?”

وَلَا تَحْزَنْ عَلَيْهِمْ وَلَا تَكُن فِي ضَيْقٍ مِّمَّا يَمْكُرُونَ(70)

Ngươi (Thiên Sứ Muhammad) chớ buồn phiền cho điều bọn họ nói và cũng chớ khổ tâm cho những điều bọn họ đã âm mưu.

وَيَقُولُونَ مَتَىٰ هَٰذَا الْوَعْدُ إِن كُنتُمْ صَادِقِينَ(71)

(Những kẻ vô đức tin và phủ nhận sự phục sinh) nói: “Chừng nào lời hứa này sẽ xảy ra nếu quí vị nói thật?”

قُلْ عَسَىٰ أَن يَكُونَ رَدِفَ لَكُم بَعْضُ الَّذِي تَسْتَعْجِلُونَ(72)

Ngươi (Thiên Sứ Muhammad) hãy nói với họ: “Điều mà các người hối thúc có lẽ ở gần sát sau lưng các người.”

وَإِنَّ رَبَّكَ لَذُو فَضْلٍ عَلَى النَّاسِ وَلَٰكِنَّ أَكْثَرَهُمْ لَا يَشْكُرُونَ(73)

Quả thật, Thượng Đế của Ngươi đã đặc ân đối với loài người, nhưng đa số bọn họ thường không biết ơn.

وَإِنَّ رَبَّكَ لَيَعْلَمُ مَا تُكِنُّ صُدُورُهُمْ وَمَا يُعْلِنُونَ(74)

Quả thật, Thượng Đế của Ngươi biết rõ điều họ giấu giếm trong lòng cũng như điều họ bộc lộ ra ngoài.

وَمَا مِنْ غَائِبَةٍ فِي السَّمَاءِ وَالْأَرْضِ إِلَّا فِي كِتَابٍ مُّبِينٍ(75)

Không có một điều bí ẩn nào trên trời hay dưới đất mà lại không được ghi rõ ràng trong quyển sổ (ở nơi Ngài).

إِنَّ هَٰذَا الْقُرْآنَ يَقُصُّ عَلَىٰ بَنِي إِسْرَائِيلَ أَكْثَرَ الَّذِي هُمْ فِيهِ يَخْتَلِفُونَ(76)

Kinh Qur’an này thực sự kể lại cho con cháu của Israel nhiều điều mà họ thường tranh chấp nhau trong đó.

وَإِنَّهُ لَهُدًى وَرَحْمَةٌ لِّلْمُؤْمِنِينَ(77)

Và (Qur’an) đích thực là chỉ đạo và hồng ân cho những người có đức tin.

إِنَّ رَبَّكَ يَقْضِي بَيْنَهُم بِحُكْمِهِ ۚ وَهُوَ الْعَزِيزُ الْعَلِيمُ(78)

Quả thật, Thượng Đế của Ngươi sẽ xét xử họ theo quyết định của Ngài bởi vì Ngài là Đấng Toàn Năng, Hằng Biết.

فَتَوَكَّلْ عَلَى اللَّهِ ۖ إِنَّكَ عَلَى الْحَقِّ الْمُبِينِ(79)

Do đó, Ngươi hãy phó thác cho Allah, quả thật Ngươi đang ở trên Chân Lý rõ ràng.

إِنَّكَ لَا تُسْمِعُ الْمَوْتَىٰ وَلَا تُسْمِعُ الصُّمَّ الدُّعَاءَ إِذَا وَلَّوْا مُدْبِرِينَ(80)

Ngươi chắc chắn không thể làm cho người chết nghe được và cũng không thể làm cho người điếc nghe tiếng gọi khi họ đã quay lưng bỏ đi.

وَمَا أَنتَ بِهَادِي الْعُمْيِ عَن ضَلَالَتِهِمْ ۖ إِن تُسْمِعُ إِلَّا مَن يُؤْمِنُ بِآيَاتِنَا فَهُم مُّسْلِمُونَ(81)

Và Ngươi cũng không có khả năng hướng dẫn người mù ra khỏi tình trạng lạc lối của họ. Ngươi chỉ có thể làm cho những người có đức tin nơi những lời mặc khải của TA nghe được mà thôi, bởi họ là những người Muslim (thần phục TA).

۞ وَإِذَا وَقَعَ الْقَوْلُ عَلَيْهِمْ أَخْرَجْنَا لَهُمْ دَابَّةً مِّنَ الْأَرْضِ تُكَلِّمُهُمْ أَنَّ النَّاسَ كَانُوا بِآيَاتِنَا لَا يُوقِنُونَ(82)

Khi lời hứa về việc trừng phạt họ sắp được thể hiện, TA sẽ cho ra từ lòng đất một con thú biết nói chuyện với họ, bởi nhân loại đã không tin nơi các lời mặc khải của TA.

وَيَوْمَ نَحْشُرُ مِن كُلِّ أُمَّةٍ فَوْجًا مِّمَّن يُكَذِّبُ بِآيَاتِنَا فَهُمْ يُوزَعُونَ(83)

(Ngươi, hỡi Thiên Sứ Muhammad, hãy nghĩ tới) Ngày mà TA sẽ cho tập trung tất cả từ mỗi cộng đồng và tách nhóm người đã phủ nhận những lời mặc khải của TA thành một nhóm riêng; rồi họ sẽ bị bắt đứng thành hàng chờ đợi.

حَتَّىٰ إِذَا جَاءُوا قَالَ أَكَذَّبْتُم بِآيَاتِي وَلَمْ تُحِيطُوا بِهَا عِلْمًا أَمَّاذَا كُنتُمْ تَعْمَلُونَ(84)

Khi toàn bộ đã đến tập họp, (Allah) hỏi họ: “Có phải các ngươi đã phủ nhận những lời mặc khải của TA trong lúc các ngươi không có kiến thức để tiếp thu chúng hay phải chăng các ngươi đã làm gì?”

وَوَقَعَ الْقَوْلُ عَلَيْهِم بِمَا ظَلَمُوا فَهُمْ لَا يَنطِقُونَ(85)

Lời hứa về việc trừng phạt họ bởi những sai quấy mà họ đã làm chắc chắn sẽ được thể hiện, rồi lúc đó họ sẽ không thể nói được gì.

أَلَمْ يَرَوْا أَنَّا جَعَلْنَا اللَّيْلَ لِيَسْكُنُوا فِيهِ وَالنَّهَارَ مُبْصِرًا ۚ إِنَّ فِي ذَٰلِكَ لَآيَاتٍ لِّقَوْمٍ يُؤْمِنُونَ(86)

Lẽ nào họ đã không nhìn thấy việc TA đã làm ra ban đêm cho họ nghỉ ngơi và ban ngày để họ quan sát (được mọi vật)? Quả thật, trong sự việc đó là những dấu hiệu cho đám người có đức tin.

وَيَوْمَ يُنفَخُ فِي الصُّورِ فَفَزِعَ مَن فِي السَّمَاوَاتِ وَمَن فِي الْأَرْضِ إِلَّا مَن شَاءَ اللَّهُ ۚ وَكُلٌّ أَتَوْهُ دَاخِرِينَ(87)

(Hỡi Thiên Sứ Muhammad, Ngươi hãy nghĩ đến) ngày mà tiếng còi sẽ được thổi lên khiến những ai ở trên trời và những ai dưới đất đều phải bạt vía kinh hồn ngoại trừ ai mà Allah muốn dung tha. Và tất cả đều phải hạ mình khiêm tốn đến trình diện trước Ngài.

وَتَرَى الْجِبَالَ تَحْسَبُهَا جَامِدَةً وَهِيَ تَمُرُّ مَرَّ السَّحَابِ ۚ صُنْعَ اللَّهِ الَّذِي أَتْقَنَ كُلَّ شَيْءٍ ۚ إِنَّهُ خَبِيرٌ بِمَا تَفْعَلُونَ(88)

Rồi (lúc đó) Ngươi sẽ thấy những quả núi mà Ngươi đã nghĩ rằng chúng rất kiên cố vững chắc sẽ vỡ ra như những đám mây tan. Công trình tạo hóa của Allah, Đấng đã hoàn chỉnh mọi vật. Quả thật, Ngài luôn tường tận mọi điều các ngươi làm.

مَن جَاءَ بِالْحَسَنَةِ فَلَهُ خَيْرٌ مِّنْهَا وَهُم مِّن فَزَعٍ يَوْمَئِذٍ آمِنُونَ(89)

Ai mang theo điều tốt thì sẽ được ban thưởng điều tốt hơn và sẽ được an toàn khỏi cảnh kinh hoàng của Ngày hôm đó.

وَمَن جَاءَ بِالسَّيِّئَةِ فَكُبَّتْ وُجُوهُهُمْ فِي النَّارِ هَلْ تُجْزَوْنَ إِلَّا مَا كُنتُمْ تَعْمَلُونَ(90)

Ai mang theo điều tội lỗi thì mặt của họ sẽ bị quẳng úp vào Hỏa Ngục, kèm theo lời phán: “Lẽ nào đây không phải là hình phạt tương xứng với điều mà các ngươi đã làm?”

إِنَّمَا أُمِرْتُ أَنْ أَعْبُدَ رَبَّ هَٰذِهِ الْبَلْدَةِ الَّذِي حَرَّمَهَا وَلَهُ كُلُّ شَيْءٍ ۖ وَأُمِرْتُ أَنْ أَكُونَ مِنَ الْمُسْلِمِينَ(91)

(Hỡi Thiên Sứ Muhammad, Ngươi hãy nói): “Quả thật Ta chỉ được lệnh thờ phượng Thượng Đế của thành phố (Makkah) này, nơi mà Ngài đã làm cho nó linh thiêng, và mọi thứ đều thuộc về Ngài; và Ta được lệnh phải là một tín đồ Muslim.”

وَأَنْ أَتْلُوَ الْقُرْآنَ ۖ فَمَنِ اهْتَدَىٰ فَإِنَّمَا يَهْتَدِي لِنَفْسِهِ ۖ وَمَن ضَلَّ فَقُلْ إِنَّمَا أَنَا مِنَ الْمُنذِرِينَ(92)

“Ta được lệnh phải đọc Qur’an. Bởi thế ai được hướng dẫn thì quả thật việc được hướng dẫn đó chỉ có lợi cho bản thân y mà thôi; còn ai lạc lối thì thật ra Ta chỉ là một người cảnh báo!”

وَقُلِ الْحَمْدُ لِلَّهِ سَيُرِيكُمْ آيَاتِهِ فَتَعْرِفُونَهَا ۚ وَمَا رَبُّكَ بِغَافِلٍ عَمَّا تَعْمَلُونَ(93)

Và Ngươi hãy nói (hỡi Thiên Sứ Muhammad!): “Alhamdulillah, Đấng sẽ sớm cho các ngươi thấy những dấu hiệu của Ngài rồi các ngươi sẽ nhận ra chúng.” Và Thượng Đế của Ngươi không làm ngơ trước những điều các người làm.


المزيد من السور باللغة الفيتنامية:

سورة البقرة آل عمران سورة النساء
سورة المائدة سورة يوسف سورة ابراهيم
سورة الحجر سورة الكهف سورة مريم
سورة السجدة سورة يس سورة الدخان
سورة النجم سورة الرحمن سورة الواقعة
سورة الحشر سورة الملك سورة الحاقة

تحميل سورة النمل بصوت أشهر القراء :

قم باختيار القارئ للاستماع و تحميل سورة النمل كاملة بجودة عالية
سورة النمل أحمد العجمي
أحمد العجمي
سورة النمل خالد الجليل
خالد الجليل
سورة النمل سعد الغامدي
سعد الغامدي
سورة النمل سعود الشريم
سعود الشريم
سورة النمل عبد الباسط عبد الصمد
عبد الباسط
سورة النمل عبد الله عواد الجهني
عبد الله الجهني
سورة النمل علي الحذيفي
علي الحذيفي
سورة النمل فارس عباد
فارس عباد
سورة النمل ماهر المعيقلي
ماهر المعيقلي
سورة النمل محمد جبريل
محمد جبريل
سورة النمل محمد صديق المنشاوي
المنشاوي
سورة النمل الحصري
الحصري
سورة النمل العفاسي
مشاري العفاسي
سورة النمل ناصر القطامي
ناصر القطامي
سورة النمل ياسر الدوسري
ياسر الدوسري



Sunday, December 22, 2024

لا تنسنا من دعوة صالحة بظهر الغيب