Yunus suresi çevirisi Vietnamca

  1. Suresi mp3
  2. Başka bir sure
  3. Vietnamca
Kuranı Kerim türkçe meali | Kur'an çevirileri | Vietnamca dili | Yunus Suresi | يونس - Ayet sayısı 109 - Moshaf'taki surenin numarası: 10 - surenin ingilizce anlamı: Jonah.

الر ۚ تِلْكَ آيَاتُ الْكِتَابِ الْحَكِيمِ(1)

 Alif. Lam. Ra. Đây là những câu của Kinh Sách chí minh (Qur’an).

أَكَانَ لِلنَّاسِ عَجَبًا أَنْ أَوْحَيْنَا إِلَىٰ رَجُلٍ مِّنْهُمْ أَنْ أَنذِرِ النَّاسَ وَبَشِّرِ الَّذِينَ آمَنُوا أَنَّ لَهُمْ قَدَمَ صِدْقٍ عِندَ رَبِّهِمْ ۗ قَالَ الْكَافِرُونَ إِنَّ هَٰذَا لَسَاحِرٌ مُّبِينٌ(2)

 Có phải con người lấy làm ngạc nhiên khi TA (Allah) đã mặc khải (Kinh Sách) xuống cho một người đàn ông (xuất thân) từ họ để cảnh báo nhân loại (về hình phạt của Allah) và báo tin mừng cho những người có đức tin rằng họ sẽ được (phần thưởng tốt đẹp) ở nơi Thượng Đế của họ về những gì mà họ gửi đi trước. (Tuy nhiên), những kẻ vô đức tin lại nói: “Rõ ràng đây là một tên phù thủy.”

إِنَّ رَبَّكُمُ اللَّهُ الَّذِي خَلَقَ السَّمَاوَاتِ وَالْأَرْضَ فِي سِتَّةِ أَيَّامٍ ثُمَّ اسْتَوَىٰ عَلَى الْعَرْشِ ۖ يُدَبِّرُ الْأَمْرَ ۖ مَا مِن شَفِيعٍ إِلَّا مِن بَعْدِ إِذْنِهِ ۚ ذَٰلِكُمُ اللَّهُ رَبُّكُمْ فَاعْبُدُوهُ ۚ أَفَلَا تَذَكَّرُونَ(3)

 Thật vậy, Thượng Đế của các ngươi (hỡi những kẻ ngạc nhiên) là Allah, Đấng đã tạo ra các tầng trời và trái đất trong sáu ngày, rồi Ngài ngự trị trên ngai vương. Ngài điều hành và sắp xếp mọi công việc. Không có bất cứ ai can thiệp (cho ai) ngoại trừ có sự cho phép của Ngài. Đó là Allah, Thượng Đế của các ngươi, vì vậy các ngươi hãy tôn thờ Ngài, lẽ nào các ngươi không lưu tâm?!

إِلَيْهِ مَرْجِعُكُمْ جَمِيعًا ۖ وَعْدَ اللَّهِ حَقًّا ۚ إِنَّهُ يَبْدَأُ الْخَلْقَ ثُمَّ يُعِيدُهُ لِيَجْزِيَ الَّذِينَ آمَنُوا وَعَمِلُوا الصَّالِحَاتِ بِالْقِسْطِ ۚ وَالَّذِينَ كَفَرُوا لَهُمْ شَرَابٌ مِّنْ حَمِيمٍ وَعَذَابٌ أَلِيمٌ بِمَا كَانُوا يَكْفُرُونَ(4)

 Rồi tất cả các ngươi phải trở về trình diện Ngài, lời hứa của Allah là sự thật. Thật vậy, Ngài đã bắt đầu (quá trình) tạo hóa rồi Ngài sẽ lập lại nó để Ngài có thể ban thưởng cho những ai đã tin tưởng và hành thiện theo lẽ công bằng. Riêng đối với những kẻ vô đức tin, chúng sẽ được chiêu đãi bằng một loại nước sôi và một hình phạt đau đớn cho những điều mà chúng đã từng phủ nhận.

هُوَ الَّذِي جَعَلَ الشَّمْسَ ضِيَاءً وَالْقَمَرَ نُورًا وَقَدَّرَهُ مَنَازِلَ لِتَعْلَمُوا عَدَدَ السِّنِينَ وَالْحِسَابَ ۚ مَا خَلَقَ اللَّهُ ذَٰلِكَ إِلَّا بِالْحَقِّ ۚ يُفَصِّلُ الْآيَاتِ لِقَوْمٍ يَعْلَمُونَ(5)

 Ngài là Ðấng đã tạo ra mặt trời chiếu sáng (chói lọi) và mặt trăng mang ánh sáng (dịu mát) và Ngài sắp đặt cho nó xuất hiện tại các vị trí khác nhau để các ngươi nhận biết được số lượng năm tháng và tính toán (thời gian). Allah đã tạo ra điều này vì chân lý. Ngài giải thích rõ các dấu hiệu (của Ngài) cho nhóm người hiểu biết.

إِنَّ فِي اخْتِلَافِ اللَّيْلِ وَالنَّهَارِ وَمَا خَلَقَ اللَّهُ فِي السَّمَاوَاتِ وَالْأَرْضِ لَآيَاتٍ لِّقَوْمٍ يَتَّقُونَ(6)

 Quả thật, trong sự luân phiên của đêm và ngày, và trong những gì mà Allah đã tạo ra trong các tầng trời và trái đất đều là những dấu hiệu (chứng minh quyền năng của Allah) dành cho những người ngoan đạo (ngay chính, sợ Allah).

إِنَّ الَّذِينَ لَا يَرْجُونَ لِقَاءَنَا وَرَضُوا بِالْحَيَاةِ الدُّنْيَا وَاطْمَأَنُّوا بِهَا وَالَّذِينَ هُمْ عَنْ آيَاتِنَا غَافِلُونَ(7)

 Những kẻ không mong đợi cuộc gặp gỡ với TA (- Allah, ở Đời Sau) và hài lòng với cuộc sống thế giới này và cảm thấy an nhiên ở đó cũng như những kẻ thờ ơ với các lời phán của TA.

أُولَٰئِكَ مَأْوَاهُمُ النَّارُ بِمَا كَانُوا يَكْسِبُونَ(8)

 Chúng là những kẻ mà chỗ ở sẽ là Hỏa Ngục do hậu quả của những điều mà chúng đã tích lũy.

إِنَّ الَّذِينَ آمَنُوا وَعَمِلُوا الصَّالِحَاتِ يَهْدِيهِمْ رَبُّهُم بِإِيمَانِهِمْ ۖ تَجْرِي مِن تَحْتِهِمُ الْأَنْهَارُ فِي جَنَّاتِ النَّعِيمِ(9)

 Thật vậy, những người có đức tin và hành thiện, Thượng Đế của họ sẽ hướng dẫn họ (đến với sự hài lòng của Ngài) bằng đức tin của họ, (và Ngài sẽ thu nhận họ vào) các Ngôi Vườn Thiên Đàng hạnh phúc), bên dưới có những dòng sông chảy.

دَعْوَاهُمْ فِيهَا سُبْحَانَكَ اللَّهُمَّ وَتَحِيَّتُهُمْ فِيهَا سَلَامٌ ۚ وَآخِرُ دَعْوَاهُمْ أَنِ الْحَمْدُ لِلَّهِ رَبِّ الْعَالَمِينَ(10)

 Lời cầu nguyện của họ trong Thiên Đàng (sẽ là) “Lạy Allah, Ngài là Đấng Vinh Quang và Tối Cao!” và lời chào của họ với nhau (sẽ là) “Salam” – (Chào an lành!) và lời cầu nguyện cuối cùng của họ (sẽ là) “Alhamdulilla-hi Rabbil-a-lami-n” - (Ca ngợi, tán dương và tạ ơn Allah, Thượng Đế của vũ trụ và vạn vật.)

۞ وَلَوْ يُعَجِّلُ اللَّهُ لِلنَّاسِ الشَّرَّ اسْتِعْجَالَهُم بِالْخَيْرِ لَقُضِيَ إِلَيْهِمْ أَجَلُهُمْ ۖ فَنَذَرُ الَّذِينَ لَا يَرْجُونَ لِقَاءَنَا فِي طُغْيَانِهِمْ يَعْمَهُونَ(11)

 Nếu như Allah vội vàng đáp lại điều xấu mà con người (yêu cầu) giống như việc con người muốn Ngài đáp lại điều tốt (khi họ cầu xin Ngài) thì chắc chắn tuổi thọ của họ đã phải kết thúc. Tuy nhiên, TA bỏ mặc những kẻ không mong đợi cuộc gặp gỡ với TA sống lang thang một cách mù quáng.

وَإِذَا مَسَّ الْإِنسَانَ الضُّرُّ دَعَانَا لِجَنبِهِ أَوْ قَاعِدًا أَوْ قَائِمًا فَلَمَّا كَشَفْنَا عَنْهُ ضُرَّهُ مَرَّ كَأَن لَّمْ يَدْعُنَا إِلَىٰ ضُرٍّ مَّسَّهُ ۚ كَذَٰلِكَ زُيِّنَ لِلْمُسْرِفِينَ مَا كَانُوا يَعْمَلُونَ(12)

 Con người khi gặp hoạn nạn, y van vái cầu khẩn TA cứu giúp (trong mọi tư thế) nằm, ngồi hoặc đứng. Nhưng khi TA giúp y thoát khỏi cơn nguy nạn, y (làm ngơ) bước đi như thể y chưa bao giờ từng cầu khẩn TA cứu giúp y thoát nạn. Như thế đó, những gì mà những kẻ tội lỗi đã làm lại tỏ ra đẹp mắt đối với chúng.

وَلَقَدْ أَهْلَكْنَا الْقُرُونَ مِن قَبْلِكُمْ لَمَّا ظَلَمُوا ۙ وَجَاءَتْهُمْ رُسُلُهُم بِالْبَيِّنَاتِ وَمَا كَانُوا لِيُؤْمِنُوا ۚ كَذَٰلِكَ نَجْزِي الْقَوْمَ الْمُجْرِمِينَ(13)

 TA đã tiêu diệt những thế hệ trước các ngươi (hỡi những kẻ đa thần) khi mà chúng làm điều sai quấy. Các Sứ Giả của chúng đã đến với chúng với những bằng chứng rõ ràng nhưng chúng không tin. TA đáp trả những kẻ tội lỗi đúng như thế.

ثُمَّ جَعَلْنَاكُمْ خَلَائِفَ فِي الْأَرْضِ مِن بَعْدِهِمْ لِنَنظُرَ كَيْفَ تَعْمَلُونَ(14)

 Sau đó, TA đã để các ngươi (loài người) thành những người kế thừa trái đất này sau chúng để quan sát các ngươi hành động thế nào (nếu các ngươi làm tốt sẽ được tốt còn nếu các người làm điều xấu sẽ bị điều xấu).

وَإِذَا تُتْلَىٰ عَلَيْهِمْ آيَاتُنَا بَيِّنَاتٍ ۙ قَالَ الَّذِينَ لَا يَرْجُونَ لِقَاءَنَا ائْتِ بِقُرْآنٍ غَيْرِ هَٰذَا أَوْ بَدِّلْهُ ۚ قُلْ مَا يَكُونُ لِي أَنْ أُبَدِّلَهُ مِن تِلْقَاءِ نَفْسِي ۖ إِنْ أَتَّبِعُ إِلَّا مَا يُوحَىٰ إِلَيَّ ۖ إِنِّي أَخَافُ إِنْ عَصَيْتُ رَبِّي عَذَابَ يَوْمٍ عَظِيمٍ(15)

 Khi các Lời Mặc Khải của TA được xướng đọc rõ ràng cho họ nghe, những kẻ không mong đợi cuộc gặp gỡ với TA nói: “Ngươi (hỡi Muhammad) hãy mang đến cho bọn ta một quyển Qur’an khác quyển này hoặc hãy thay đổi nó đi!”. Ngươi (Thiên Sứ Muhammad) hãy nói với chúng: “Ta không thể thay đổi Nó theo ý mình. Ta chỉ làm theo những gì đã được mặc khải cho Ta. Nếu Ta nghịch lại Thượng Đế của Ta, Ta thực sự sợ hình phạt của Ngày Khủng Khiếp.”

قُل لَّوْ شَاءَ اللَّهُ مَا تَلَوْتُهُ عَلَيْكُمْ وَلَا أَدْرَاكُم بِهِ ۖ فَقَدْ لَبِثْتُ فِيكُمْ عُمُرًا مِّن قَبْلِهِ ۚ أَفَلَا تَعْقِلُونَ(16)

 Ngươi (hỡi Thiên Sứ Muhammad) hãy nói với chúng: “Nếu Allah muốn, Ta đã không đọc Nó (Qur’an) cho các ngươi nghe và Ngài cũng không cho các ngươi biết về Nó. Rõ ràng Ta đã sống một quãng đời với các ngươi trước khi Nó được ban xuống, sao các ngươi lại không hiểu?!

فَمَنْ أَظْلَمُ مِمَّنِ افْتَرَىٰ عَلَى اللَّهِ كَذِبًا أَوْ كَذَّبَ بِآيَاتِهِ ۚ إِنَّهُ لَا يُفْلِحُ الْمُجْرِمُونَ(17)

 Vì vậy, ai sai quấy hơn kẻ bịa ra một lời nói dối về Allah hoặc phủ nhận các dấu hiệu của Ngài?! Chắc chắn, những kẻ tội lỗi sẽ không thành công.

وَيَعْبُدُونَ مِن دُونِ اللَّهِ مَا لَا يَضُرُّهُمْ وَلَا يَنفَعُهُمْ وَيَقُولُونَ هَٰؤُلَاءِ شُفَعَاؤُنَا عِندَ اللَّهِ ۚ قُلْ أَتُنَبِّئُونَ اللَّهَ بِمَا لَا يَعْلَمُ فِي السَّمَاوَاتِ وَلَا فِي الْأَرْضِ ۚ سُبْحَانَهُ وَتَعَالَىٰ عَمَّا يُشْرِكُونَ(18)

 (Những kẻ đa thần) tôn thờ ngoài Allah những thứ không gây hại cho họ cũng không mang lợi cho họ và họ nói: “Đây là những vị đại diện can thiệp cho chúng tôi trước Allah”. Ngươi (hỡi Thiên Sứ Muhammad) hãy nói với chúng: “Có phải các người muốn cho Allah biết điều mà (các người tưởng rằng) Ngài không biết chuyện gì xảy ra trong các tầng trời và trái đất?” Allah Vinh Quang và Tối Cao vượt bên trên mọi thứ mà chúng tổ hợp (với Ngài).

وَمَا كَانَ النَّاسُ إِلَّا أُمَّةً وَاحِدَةً فَاخْتَلَفُوا ۚ وَلَوْلَا كَلِمَةٌ سَبَقَتْ مِن رَّبِّكَ لَقُضِيَ بَيْنَهُمْ فِيمَا فِيهِ يَخْتَلِفُونَ(19)

 Thật ra, trước đây loài người vốn là một cộng đồng duy nhất (chỉ thờ phượng một mình Allah), nhưng rồi họ chia rẽ. Nếu không phải vì lời phán trước đây của Thượng Đế Ngươi (Thiên Sứ Muhammad) thì mọi tranh chấp của họ đã được giải quyết xong.

وَيَقُولُونَ لَوْلَا أُنزِلَ عَلَيْهِ آيَةٌ مِّن رَّبِّهِ ۖ فَقُلْ إِنَّمَا الْغَيْبُ لِلَّهِ فَانتَظِرُوا إِنِّي مَعَكُم مِّنَ الْمُنتَظِرِينَ(20)

 (Những kẻ đa thần) nói: “Tại sao Thượng Đế của Y (Muhammad) không ban xuống cho Y một dấu hiệu lạ nào đó (chứng minh sứ mạng của Y là thật.” Ngươi hãy nói: “Quả thật, những điều vô hình đều thuộc về kiến thức của Allah, vì vậy, các người hãy chờ đợi, quả thật Ta cũng chờ đợi cùng các người.”

وَإِذَا أَذَقْنَا النَّاسَ رَحْمَةً مِّن بَعْدِ ضَرَّاءَ مَسَّتْهُمْ إِذَا لَهُم مَّكْرٌ فِي آيَاتِنَا ۚ قُلِ اللَّهُ أَسْرَعُ مَكْرًا ۚ إِنَّ رُسُلَنَا يَكْتُبُونَ مَا تَمْكُرُونَ(21)

 Khi mà TA (Allah) cho con người nếm trải hồng phúc (của TA) sau cơn nguy nạn, ngay lập tức họ âm mưu chống lại các Lời Mặc Khải của TA. Ngươi (hỡi Thiên Sứ Muhammad) hãy nói: “Allah nhanh hơn trong chiến lược.” Quả thật, các Sứ Giả của TA (các Thiên Thần ghi chép) luôn ghi chép hết mọi thứ mà các người âm mưu.”

هُوَ الَّذِي يُسَيِّرُكُمْ فِي الْبَرِّ وَالْبَحْرِ ۖ حَتَّىٰ إِذَا كُنتُمْ فِي الْفُلْكِ وَجَرَيْنَ بِهِم بِرِيحٍ طَيِّبَةٍ وَفَرِحُوا بِهَا جَاءَتْهَا رِيحٌ عَاصِفٌ وَجَاءَهُمُ الْمَوْجُ مِن كُلِّ مَكَانٍ وَظَنُّوا أَنَّهُمْ أُحِيطَ بِهِمْ ۙ دَعَوُا اللَّهَ مُخْلِصِينَ لَهُ الدِّينَ لَئِنْ أَنجَيْتَنَا مِنْ هَٰذِهِ لَنَكُونَنَّ مِنَ الشَّاكِرِينَ(22)

 (Allah), chính Ngài là Đấng làm cho các ngươi có thể đi lại trên đất liền và ngoài biển cả và khi các ngươi ở trên tàu. Con tàu đưa họ vượt trùng dương với làn gió nhẹ, họ vui mừng với chuyến đi. Bỗng một cơn cuồng phong nổi lên, những làn sóng (khổng lồ) từ khắp nơi ập đến, họ nghĩ mình sẽ bị chết chìm trong trận giông tố này, họ liền chân thành khấn vái Allah: “Nếu Ngài cứu bầy tôi khỏi đại nạn này, chắc chắn bầy tôi sẽ là những người biết ơn Ngài.”

فَلَمَّا أَنجَاهُمْ إِذَا هُمْ يَبْغُونَ فِي الْأَرْضِ بِغَيْرِ الْحَقِّ ۗ يَا أَيُّهَا النَّاسُ إِنَّمَا بَغْيُكُمْ عَلَىٰ أَنفُسِكُم ۖ مَّتَاعَ الْحَيَاةِ الدُّنْيَا ۖ ثُمَّ إِلَيْنَا مَرْجِعُكُمْ فَنُنَبِّئُكُم بِمَا كُنتُمْ تَعْمَلُونَ(23)

 Nhưng sau khi Ngài cứu họ (khỏi cơn nguy nạn) thì họ lại gieo rắc tội lỗi trên trái đất bất chấp công lý. Hỡi nhân loại, thật ra tội lỗi đó chỉ hại bản thân các ngươi thôi, (đó chỉ là) sự hưởng thụ tạm bợ của đời sống thế tục, rồi đây các ngươi sẽ trở về trình diện TA. Lúc đó, TA sẽ cho các ngươi biết về mọi thứ mà các ngươi đã từng làm.

إِنَّمَا مَثَلُ الْحَيَاةِ الدُّنْيَا كَمَاءٍ أَنزَلْنَاهُ مِنَ السَّمَاءِ فَاخْتَلَطَ بِهِ نَبَاتُ الْأَرْضِ مِمَّا يَأْكُلُ النَّاسُ وَالْأَنْعَامُ حَتَّىٰ إِذَا أَخَذَتِ الْأَرْضُ زُخْرُفَهَا وَازَّيَّنَتْ وَظَنَّ أَهْلُهَا أَنَّهُمْ قَادِرُونَ عَلَيْهَا أَتَاهَا أَمْرُنَا لَيْلًا أَوْ نَهَارًا فَجَعَلْنَاهَا حَصِيدًا كَأَن لَّمْ تَغْنَ بِالْأَمْسِ ۚ كَذَٰلِكَ نُفَصِّلُ الْآيَاتِ لِقَوْمٍ يَتَفَكَّرُونَ(24)

 Quả thật, hình ảnh đời sống trần tục này chỉ giống như một cơn mưa mà TA ban từ trời xuống làm cây cối trên đất hấp thụ, (cho ra) đủ loại cây trái hoa màu cung cấp lương thực cho con người và gia súc, cho đến khi mảnh đất được trang điểm và đẹp đẽ khiến các chủ nhân của nó nghĩ rằng mình có khả năng thu hoạch tốt vụ mùa thì mệnh lệnh (hủy hoại mùa màng) của TA được ban xuống đêm ngày. TA đã làm cho mùa gặt như thể nó chưa phát triển ngày hôm qua. Như thế đó, TA đã giải thích chi tiết các dấu hiệu cho nhóm người biết suy ngẫm.

وَاللَّهُ يَدْعُو إِلَىٰ دَارِ السَّلَامِ وَيَهْدِي مَن يَشَاءُ إِلَىٰ صِرَاطٍ مُّسْتَقِيمٍ(25)

 Allah mời gọi (con người) đến với Ngôi Nhà Bằng An (Thiên Đàng) và hướng dẫn bất cứ ai Ngài muốn đến với con đường ngay chính (đó là tôn giáo Islam).

۞ لِّلَّذِينَ أَحْسَنُوا الْحُسْنَىٰ وَزِيَادَةٌ ۖ وَلَا يَرْهَقُ وُجُوهَهُمْ قَتَرٌ وَلَا ذِلَّةٌ ۚ أُولَٰئِكَ أَصْحَابُ الْجَنَّةِ ۖ هُمْ فِيهَا خَالِدُونَ(26)

 Những người làm tốt sẽ có được phần thưởng tốt và hơn thế nữa. Không có bóng tối nào bao phủ khuôn mặt của họ, cũng không có sự sỉ nhục. Họ là những người bạn của Thiên Đàng, họ sẽ sống trong đó mãi mãi.

وَالَّذِينَ كَسَبُوا السَّيِّئَاتِ جَزَاءُ سَيِّئَةٍ بِمِثْلِهَا وَتَرْهَقُهُمْ ذِلَّةٌ ۖ مَّا لَهُم مِّنَ اللَّهِ مِنْ عَاصِمٍ ۖ كَأَنَّمَا أُغْشِيَتْ وُجُوهُهُمْ قِطَعًا مِّنَ اللَّيْلِ مُظْلِمًا ۚ أُولَٰئِكَ أَصْحَابُ النَّارِ ۖ هُمْ فِيهَا خَالِدُونَ(27)

 Những kẻ làm điều xấu sẽ nhận lại điều xấu tương ứng với nó và sự sỉ nhục sẽ bao trùm chúng. Chúng sẽ không có một ai bảo vệ trước Allah. Gương mặt của chúng như thể bị bao phủ bởi bóng tối của màn đêm – thật đen tối. Chúng là những người bạn của Hỏa Ngục, chúng sẽ sống trong đó mãi mãi.

وَيَوْمَ نَحْشُرُهُمْ جَمِيعًا ثُمَّ نَقُولُ لِلَّذِينَ أَشْرَكُوا مَكَانَكُمْ أَنتُمْ وَشُرَكَاؤُكُمْ ۚ فَزَيَّلْنَا بَيْنَهُمْ ۖ وَقَالَ شُرَكَاؤُهُم مَّا كُنتُمْ إِيَّانَا تَعْبُدُونَ(28)

 Vào Ngày mà TA sẽ triệu tập tất cả (loài người), rồi TA phán với những kẻ đa thần: “Các ngươi và thần linh mà các ngươi tổ hợp hãy ở yên vị trí của mình.” Sau đó, TA sẽ tách chúng ra và các thần linh của chúng sẽ nói: “Các ngươi không từng thờ phượng bọn ta.”

فَكَفَىٰ بِاللَّهِ شَهِيدًا بَيْنَنَا وَبَيْنَكُمْ إِن كُنَّا عَنْ عِبَادَتِكُمْ لَغَافِلِينَ(29)

 “Allah đã đủ làm nhân chứng cho bọn ta và các ngươi, và bọn ta đã không biết gì về sự thờ phượng của các ngươi.”

هُنَالِكَ تَبْلُو كُلُّ نَفْسٍ مَّا أَسْلَفَتْ ۚ وَرُدُّوا إِلَى اللَّهِ مَوْلَاهُمُ الْحَقِّ ۖ وَضَلَّ عَنْهُم مَّا كَانُوا يَفْتَرُونَ(30)

 (Vào Ngày vĩ đại đó), mọi linh hồn sẽ chứng kiến hậu quả của những điều mà nó đã từng làm và (những kẻ đa thần) sẽ được đưa về với Allah, Đấng Bảo Hộ đích thực của chúng. Và những gì mà chúng đã bịa đặt trước đây sẽ bỏ chúng đi mất.

قُلْ مَن يَرْزُقُكُم مِّنَ السَّمَاءِ وَالْأَرْضِ أَمَّن يَمْلِكُ السَّمْعَ وَالْأَبْصَارَ وَمَن يُخْرِجُ الْحَيَّ مِنَ الْمَيِّتِ وَيُخْرِجُ الْمَيِّتَ مِنَ الْحَيِّ وَمَن يُدَبِّرُ الْأَمْرَ ۚ فَسَيَقُولُونَ اللَّهُ ۚ فَقُلْ أَفَلَا تَتَّقُونَ(31)

 Ngươi (hỡi Thiên Sứ Muhammad) hãy hỏi (những kẻ đa thần phủ nhận Allah): “Ai ban lộc cho các ngươi từ trời đất? Ai chi phối thính giác và thị giác của các ngươi? Ai đưa cái sống ra từ cái chết và đưa cái chết ra từ cái sống? Và ai điều hành, sắp xếp mọi hoạt động (của vũ trụ)?” Chúng sẽ nói: “Allah”. Vì vậy, Ngươi hãy nói với chúng: “Vậy tại sao các ngươi không sợ (Ngài)?”

فَذَٰلِكُمُ اللَّهُ رَبُّكُمُ الْحَقُّ ۖ فَمَاذَا بَعْدَ الْحَقِّ إِلَّا الضَّلَالُ ۖ فَأَنَّىٰ تُصْرَفُونَ(32)

 Đấy là Allah, Thượng Đế đích thực của các ngươi. Thế nên bất cứ điều gì ngoài chân lý đều lầm lạc, vậy các ngươi lạc hướng đi đâu?

كَذَٰلِكَ حَقَّتْ كَلِمَتُ رَبِّكَ عَلَى الَّذِينَ فَسَقُوا أَنَّهُمْ لَا يُؤْمِنُونَ(33)

 Lời nói của Thượng Đế của Ngươi (Thiên Sứ Muhammad) về những kẻ bất tuân, dấy loạn đúng như thế, rằng chúng sẽ không có đức tin.

قُلْ هَلْ مِن شُرَكَائِكُم مَّن يَبْدَأُ الْخَلْقَ ثُمَّ يُعِيدُهُ ۚ قُلِ اللَّهُ يَبْدَأُ الْخَلْقَ ثُمَّ يُعِيدُهُ ۖ فَأَنَّىٰ تُؤْفَكُونَ(34)

 Ngươi (hỡi Thiên Sứ Muhammad) hãy nói (với những kẻ đa thần): “Các thần linh mà các ngươi thờ phượng ngoài Allah có khả năng khởi tạo (vũ trụ) và tái tạo nó không?” Ngươi (hỡi Thiên Sứ Muhammad) hãy nói với chúng: “Allah khởi tạo (vũ trụ) và tái tạo nó trở lại.” Vậy sao các ngươi vẫn còn xa lánh (chân lý)?”

قُلْ هَلْ مِن شُرَكَائِكُم مَّن يَهْدِي إِلَى الْحَقِّ ۚ قُلِ اللَّهُ يَهْدِي لِلْحَقِّ ۗ أَفَمَن يَهْدِي إِلَى الْحَقِّ أَحَقُّ أَن يُتَّبَعَ أَمَّن لَّا يَهِدِّي إِلَّا أَن يُهْدَىٰ ۖ فَمَا لَكُمْ كَيْفَ تَحْكُمُونَ(35)

 Ngươi (hỡi Thiên Sứ) hãy hỏi chúng: “Có thần linh nào của các ngươi hướng dẫn đến chân lý không?” Ngươi hãy nói: “Allah hướng dẫn đến chân lý.” Vậy Ðấng hướng dẫn đến chân lý đáng được tuân theo hơn hay một kẻ không thể hướng dẫn trừ phi được hướng dẫn? Các ngươi cư xử và đánh giá sao thế?

وَمَا يَتَّبِعُ أَكْثَرُهُمْ إِلَّا ظَنًّا ۚ إِنَّ الظَّنَّ لَا يُغْنِي مِنَ الْحَقِّ شَيْئًا ۚ إِنَّ اللَّهَ عَلِيمٌ بِمَا يَفْعَلُونَ(36)

 Và hầu hết (những kẻ đa thần) chỉ đi theo giả định. Thật vậy, giả định không thay thế được gì cho sự thật. Quả thật, Allah biết rõ những điều chúng làm.

وَمَا كَانَ هَٰذَا الْقُرْآنُ أَن يُفْتَرَىٰ مِن دُونِ اللَّهِ وَلَٰكِن تَصْدِيقَ الَّذِي بَيْنَ يَدَيْهِ وَتَفْصِيلَ الْكِتَابِ لَا رَيْبَ فِيهِ مِن رَّبِّ الْعَالَمِينَ(37)

 Qur’an này không thể nào do ai khác ngoài Allah làm ra. Nó xác nhận lại những gì trước Nó và giải thích chi tiết về Kinh Thánh trước đây (như Tawrah, Injil, Zabur…), không có gì phải hoài nghi rằng Nó đến từ Đấng Chúa Tể của vũ trụ và vạn vật.

أَمْ يَقُولُونَ افْتَرَاهُ ۖ قُلْ فَأْتُوا بِسُورَةٍ مِّثْلِهِ وَادْعُوا مَنِ اسْتَطَعْتُم مِّن دُونِ اللَّهِ إِن كُنتُمْ صَادِقِينَ(38)

 Hoặc có phải (những kẻ đa thần) bảo Y (Muhammad) đã bịa đặt ra (Qur’an)? Ngươi (Thiên Sứ Muhammad) hãy nói: “Vậy các người hãy mang đến một chương Kinh giống như thế và hãy gọi bất cứ ai ngoài Allah đến giúp đỡ, nếu các ngươi nói thật!”

بَلْ كَذَّبُوا بِمَا لَمْ يُحِيطُوا بِعِلْمِهِ وَلَمَّا يَأْتِهِمْ تَأْوِيلُهُ ۚ كَذَٰلِكَ كَذَّبَ الَّذِينَ مِن قَبْلِهِمْ ۖ فَانظُرْ كَيْفَ كَانَ عَاقِبَةُ الظَّالِمِينَ(39)

 Đúng hơn, chúng đã phủ nhận những gì mà chúng không thể bao hàm với sự hiểu biết của chúng và chúng chưa đạt được lời giải thích của nó. Tương tự như thế, những kẻ trước chúng cũng đã phủ nhận. Cho nên, Ngươi (hỡi Thiên Sứ Muhammad) hãy xem kết cuộc của những kẻ làm điều sai quấy đã diễn ra thế nào!

وَمِنْهُم مَّن يُؤْمِنُ بِهِ وَمِنْهُم مَّن لَّا يُؤْمِنُ بِهِ ۚ وَرَبُّكَ أَعْلَمُ بِالْمُفْسِدِينَ(40)

 Trong số (những kẻ đa thần) có người đã tin tưởng vào (Qur’an) và có người không tin tưởng vào Nó. Tuy nhiên, Thượng Đế của Ngươi (Muhammad) biết rõ những kẻ dấy loạn bất tuân.

وَإِن كَذَّبُوكَ فَقُل لِّي عَمَلِي وَلَكُمْ عَمَلُكُمْ ۖ أَنتُم بَرِيئُونَ مِمَّا أَعْمَلُ وَأَنَا بَرِيءٌ مِّمَّا تَعْمَلُونَ(41)

 Nếu như chúng phủ nhận Ngươi (hỡi Thiên Sứ Muhammad) thì Ngươi hãy nói: “Ta chịu trách nhiệm cho hành động của Ta và các ngươi chịu trách nhiệm cho hành động của các ngươi, các ngươi không liên can đến việc làm của Ta và Ta không liên can đến việc làm của các ngươi.”

وَمِنْهُم مَّن يَسْتَمِعُونَ إِلَيْكَ ۚ أَفَأَنتَ تُسْمِعُ الصُّمَّ وَلَوْ كَانُوا لَا يَعْقِلُونَ(42)

 Trong số (những kẻ đa thần) có người đến (giả vờ) nghe Ngươi (Thiên Sứ) xướng đọc (Qur’an). (Nhưng Ngươi – hỡi Thiên Sứ Muhammad, hãy biết rằng) làm sao Ngươi có thể làm cho người điếc nghe được cũng như làm sao Ngươi có thể hướng dẫn (đám người) khi chúng không hiểu gì?

وَمِنْهُم مَّن يَنظُرُ إِلَيْكَ ۚ أَفَأَنتَ تَهْدِي الْعُمْيَ وَلَوْ كَانُوا لَا يُبْصِرُونَ(43)

 Trong số (những kẻ đa thần) có người hướng mắt nhìn Ngươi (Thiên Sứ Muhammad). Nhưng làm sao Ngươi có thể hướng dẫn được người mù khi họ không nhìn thấy?

إِنَّ اللَّهَ لَا يَظْلِمُ النَّاسَ شَيْئًا وَلَٰكِنَّ النَّاسَ أَنفُسَهُمْ يَظْلِمُونَ(44)

 Thật vậy, Allah đã không bất công với con người về bất cứ điều gì, nhưng chính con người lại bất công với bản thân mình.

وَيَوْمَ يَحْشُرُهُمْ كَأَن لَّمْ يَلْبَثُوا إِلَّا سَاعَةً مِّنَ النَّهَارِ يَتَعَارَفُونَ بَيْنَهُمْ ۚ قَدْ خَسِرَ الَّذِينَ كَذَّبُوا بِلِقَاءِ اللَّهِ وَمَا كَانُوا مُهْتَدِينَ(45)

 Vào Ngày mà (Allah) sẽ tập hợp (nhân loại), họ (cảm giác) như thể họ chỉ ở lại (thế gian) một giờ trong ngày. Và họ sẽ nhận biết nhau. Quả thật, những kẻ phủ nhận cuộc gặp gỡ với Allah sẽ thất bại và họ là những kẻ đã không được hướng dẫn.

وَإِمَّا نُرِيَنَّكَ بَعْضَ الَّذِي نَعِدُهُمْ أَوْ نَتَوَفَّيَنَّكَ فَإِلَيْنَا مَرْجِعُهُمْ ثُمَّ اللَّهُ شَهِيدٌ عَلَىٰ مَا يَفْعَلُونَ(46)

 Cho dù TA cho Ngươi (Thiên Sứ Muhammad) thấy một vài (hình phạt) mà TA đã hứa với chúng hay TA làm cho Ngươi chết đi thì đằng nào chúng cũng phải trở về trình diện TA. Rồi đây Allah sẽ là nhân chứng cho những gì chúng đã từng làm.

وَلِكُلِّ أُمَّةٍ رَّسُولٌ ۖ فَإِذَا جَاءَ رَسُولُهُمْ قُضِيَ بَيْنَهُم بِالْقِسْطِ وَهُمْ لَا يُظْلَمُونَ(47)

 Mỗi cộng đồng (dân tộc, quốc gia) đều có một Sứ Giả (được Allah phái đến). Vì vậy, khi sứ giả của họ đến, mọi việc tranh chấp giữa họ sẽ được giải quyết một cách công bằng và họ sẽ không bị đối xử bất công.

وَيَقُولُونَ مَتَىٰ هَٰذَا الْوَعْدُ إِن كُنتُمْ صَادِقِينَ(48)

 (Những kẻ vô đức tin) nói: “Bao giờ lời hứa (về sự trừng phạt) này sẽ xảy ra nếu các ngươi nói thật?”

قُل لَّا أَمْلِكُ لِنَفْسِي ضَرًّا وَلَا نَفْعًا إِلَّا مَا شَاءَ اللَّهُ ۗ لِكُلِّ أُمَّةٍ أَجَلٌ ۚ إِذَا جَاءَ أَجَلُهُمْ فَلَا يَسْتَأْخِرُونَ سَاعَةً ۖ وَلَا يَسْتَقْدِمُونَ(49)

 Ngươi (hỡi Thiên Sứ Muhammad) hãy nói với chúng: “Ta không có quyền năng quyết định điều hại hay điều lợi cho bản thân ngoại trừ điều nào Allah muốn. Mỗi cộng đồng đều có một thời hạn nhất định, một khi thời hạn của họ đến thì họ sẽ không thể nán lại hay đi sớm hơn một thời khắc nào.”

قُلْ أَرَأَيْتُمْ إِنْ أَتَاكُمْ عَذَابُهُ بَيَاتًا أَوْ نَهَارًا مَّاذَا يَسْتَعْجِلُ مِنْهُ الْمُجْرِمُونَ(50)

 Ngươi (hỡi Thiên Sứ) hãy nói với chúng: “Các ngươi hãy nghĩ xem, nếu (Allah) ban hình phạt xuống các người vào ban đêm hoặc ban ngày thì hình phạt nào sẽ là cái mà những tên tội lỗi thúc giục nó mau đến?!”

أَثُمَّ إِذَا مَا وَقَعَ آمَنتُم بِهِ ۚ آلْآنَ وَقَدْ كُنتُم بِهِ تَسْتَعْجِلُونَ(51)

 “Phải chăng sau khi hình phạt thật sự giáng xuống thì các ngươi mới tin hay sao? Lẽ nào bây giờ các ngươi mới tin trong khi trước đây các ngươi đã mong nó mau đến?

ثُمَّ قِيلَ لِلَّذِينَ ظَلَمُوا ذُوقُوا عَذَابَ الْخُلْدِ هَلْ تُجْزَوْنَ إِلَّا بِمَا كُنتُمْ تَكْسِبُونَ(52)

 Sau đó, có lời phán bảo với những tên làm điều sai quấy: “Các ngươi hãy nếm lấy sự trừng phạt muôn đời. Các ngươi được đền bù bởi những gì các ngươi đã kiếm được.”

۞ وَيَسْتَنبِئُونَكَ أَحَقٌّ هُوَ ۖ قُلْ إِي وَرَبِّي إِنَّهُ لَحَقٌّ ۖ وَمَا أَنتُم بِمُعْجِزِينَ(53)

 (Những kẻ đa thần) hỏi Ngươi (Thiên Sứ Muhammad): “Có phải (hình phạt mà Ngươi cảnh báo) là sự thật không?” Ngươi hãy đáp: “Xin thề với Thượng Đế của Ta, chắc chắn đó là sự thật và các ngươi sẽ không thoát.”

وَلَوْ أَنَّ لِكُلِّ نَفْسٍ ظَلَمَتْ مَا فِي الْأَرْضِ لَافْتَدَتْ بِهِ ۗ وَأَسَرُّوا النَّدَامَةَ لَمَّا رَأَوُا الْعَذَابَ ۖ وَقُضِيَ بَيْنَهُم بِالْقِسْطِ ۚ وَهُمْ لَا يُظْلَمُونَ(54)

 Nếu mỗi linh hồn làm điều sai quấy có tất cả mọi thứ trên trái đất thì chắc chắn nó sẽ dùng để chuộc tội; và (những kẻ làm điều sai quấy) sẽ hối hận khi nhìn thấy hình phạt. (Tuy nhiên), chúng sẽ được (Allah) phân xử bằng công lý và chúng sẽ không bị đối xử bất công.

أَلَا إِنَّ لِلَّهِ مَا فِي السَّمَاوَاتِ وَالْأَرْضِ ۗ أَلَا إِنَّ وَعْدَ اللَّهِ حَقٌّ وَلَٰكِنَّ أَكْثَرَهُمْ لَا يَعْلَمُونَ(55)

 Lẽ nào mọi thứ trong các tầng trời và trái đất không thuộc về một mình Allah?! Lẽ nào lời hứa của Allah không phải là sự thật?! Tuy nhiên, hầu hết (những kẻ vô đức tin) không biết mà thôi.

هُوَ يُحْيِي وَيُمِيتُ وَإِلَيْهِ تُرْجَعُونَ(56)

 Ngài làm cho sống và làm cho chết và các ngươi sẽ được đưa về trình diện Ngài trở lại (để Ngài xét xử và thưởng phạt).

يَا أَيُّهَا النَّاسُ قَدْ جَاءَتْكُم مَّوْعِظَةٌ مِّن رَّبِّكُمْ وَشِفَاءٌ لِّمَا فِي الصُّدُورِ وَهُدًى وَرَحْمَةٌ لِّلْمُؤْمِنِينَ(57)

 Hỡi con người! Thật vậy, lời răn (Qur’an) từ Thượng Đế đã đến với các ngươi. Nó là một phương thức chữa tâm bệnh của các ngươi, là một nguồn chỉ đạo và là lòng thương xót dành cho những người có đức tin.

قُلْ بِفَضْلِ اللَّهِ وَبِرَحْمَتِهِ فَبِذَٰلِكَ فَلْيَفْرَحُوا هُوَ خَيْرٌ مِّمَّا يَجْمَعُونَ(58)

 Ngươi (hỡi Thiên Sứ Muhammad) hãy nói (với nhân loại): “Với hồng phúc của Allah và lòng thương xót của Ngài, các ngươi hãy vui hưởng.” Điều đó tốt hơn những gì mà họ đã tích lũy và tom góp được.

قُلْ أَرَأَيْتُم مَّا أَنزَلَ اللَّهُ لَكُم مِّن رِّزْقٍ فَجَعَلْتُم مِّنْهُ حَرَامًا وَحَلَالًا قُلْ آللَّهُ أَذِنَ لَكُمْ ۖ أَمْ عَلَى اللَّهِ تَفْتَرُونَ(59)

 (Hỡi Thiên Sứ Muhammad), Ngươi hãy nói (với những kẻ đa thần): “Các ngươi có xem lại việc các ngươi tự ý cấm và cho phép dùng các bổng lộc mà Allah đã ban xuống cho các ngươi không?” Ngươi hãy nói với chúng: “Phải chăng Allah đã cho phép các ngươi (quyền hạn đó) hay các ngươi chỉ bịa đặt rồi nói khống cho Allah?

وَمَا ظَنُّ الَّذِينَ يَفْتَرُونَ عَلَى اللَّهِ الْكَذِبَ يَوْمَ الْقِيَامَةِ ۗ إِنَّ اللَّهَ لَذُو فَضْلٍ عَلَى النَّاسِ وَلَٰكِنَّ أَكْثَرَهُمْ لَا يَشْكُرُونَ(60)

 Những kẻ bịa đặt lời nói khống cho Allah có suy nghĩ gì về số phận của mình vào Ngày Phán Xét Cuối Cùng? Quả thật, Allah có đầy đủ hồng phúc dành cho loài người nhưng hầu hết họ không biết ơn.

وَمَا تَكُونُ فِي شَأْنٍ وَمَا تَتْلُو مِنْهُ مِن قُرْآنٍ وَلَا تَعْمَلُونَ مِنْ عَمَلٍ إِلَّا كُنَّا عَلَيْكُمْ شُهُودًا إِذْ تُفِيضُونَ فِيهِ ۚ وَمَا يَعْزُبُ عَن رَّبِّكَ مِن مِّثْقَالِ ذَرَّةٍ فِي الْأَرْضِ وَلَا فِي السَّمَاءِ وَلَا أَصْغَرَ مِن ذَٰلِكَ وَلَا أَكْبَرَ إِلَّا فِي كِتَابٍ مُّبِينٍ(61)

 Không một hành động nào của Ngươi (Thiên Sứ Muhammad), không một đoạn Qur’an nào Ngươi xướng đọc và không một hành động nào các ngươi (những người có đức tin) làm mà lại không nằm dưới sự chứng kiến của TA (Allah). Không gì có thể nằm ngoài tầm kiểm soát của Thượng Đế của Ngươi, dù một vật có sức nặng bằng trọng lượng hạt nguyên tử nằm dưới đất hay trong bầu trời hoặc thậm chí nhỏ hơn hay lớn hơn thế thì cũng đều được ghi chép rõ ràng trong Quyển Kinh (Lưu Trữ - Quyển Kinh Mẹ).

أَلَا إِنَّ أَوْلِيَاءَ اللَّهِ لَا خَوْفٌ عَلَيْهِمْ وَلَا هُمْ يَحْزَنُونَ(62)

 (Không có gì phải hoài nghi rằng) những vị Wali của Allah sẽ không lo sợ cũng sẽ không buồn phiền.

الَّذِينَ آمَنُوا وَكَانُوا يَتَّقُونَ(63)

 (Họ là) những người có đức tin và kính sợ Allah.

لَهُمُ الْبُشْرَىٰ فِي الْحَيَاةِ الدُّنْيَا وَفِي الْآخِرَةِ ۚ لَا تَبْدِيلَ لِكَلِمَاتِ اللَّهِ ۚ ذَٰلِكَ هُوَ الْفَوْزُ الْعَظِيمُ(64)

 Họ sẽ được báo cho tin mừng ngay trong cuộc sống trần gian này và cả Đời Sau. Lời phán của Allah sẽ không bao giờ thay đổi. Đó là một thành tựu vĩ đại.

وَلَا يَحْزُنكَ قَوْلُهُمْ ۘ إِنَّ الْعِزَّةَ لِلَّهِ جَمِيعًا ۚ هُوَ السَّمِيعُ الْعَلِيمُ(65)

 (Hỡi Thiên Sứ Muhammad!) Ngươi chớ để cho lời nói của (những kẻ xúc phạm tôn giáo) làm Ngươi buồn rầu. Quả thật, danh dự và quyền lực hoàn toàn thuộc về một mình Allah. Ngài là Đấng Hằng Nghe, Đấng Toàn Tri.

أَلَا إِنَّ لِلَّهِ مَن فِي السَّمَاوَاتِ وَمَن فِي الْأَرْضِ ۗ وَمَا يَتَّبِعُ الَّذِينَ يَدْعُونَ مِن دُونِ اللَّهِ شُرَكَاءَ ۚ إِن يَتَّبِعُونَ إِلَّا الظَّنَّ وَإِنْ هُمْ إِلَّا يَخْرُصُونَ(66)

 (Không có gì phải hoài nghi rằng) bất cứ ai trên các tầng trời và bất cứ ai trên trái đất đều là (tạo vật) của Allah. Những kẻ cầu khấn các thần linh khác ngoài Allah thực sự không đi theo các đối tác của Ngài (bởi vì Ngài không hề có bất cứ đối tác nào cả). Chúng chỉ đi theo sự phỏng đoán và giả định, chúng chỉ giỏi đặt điều dối gian.

هُوَ الَّذِي جَعَلَ لَكُمُ اللَّيْلَ لِتَسْكُنُوا فِيهِ وَالنَّهَارَ مُبْصِرًا ۚ إِنَّ فِي ذَٰلِكَ لَآيَاتٍ لِّقَوْمٍ يَسْمَعُونَ(67)

 (Allah) là Đấng đã tạo ra ban đêm cho (con người) nghỉ ngơi và ban ngày để họ quan sát (được mọi vật)? Quả thật, trong sự việc đó là những dấu hiệu cho đám người biết lắng nghe.

قَالُوا اتَّخَذَ اللَّهُ وَلَدًا ۗ سُبْحَانَهُ ۖ هُوَ الْغَنِيُّ ۖ لَهُ مَا فِي السَّمَاوَاتِ وَمَا فِي الْأَرْضِ ۚ إِنْ عِندَكُم مِّن سُلْطَانٍ بِهَٰذَا ۚ أَتَقُولُونَ عَلَى اللَّهِ مَا لَا تَعْلَمُونَ(68)

 (Một nhóm những kẻ đa thần) nói: “Allah có con trai”. Thật trong sạch và tối cao thay Ngài, Ngài là Đấng Miễn Cần. Vạn vật trong các tầng trời và vạn vật trong trái đất đều thuộc về một mình Ngài. Các ngươi (những kẻ đa thần) chẳng có bằng chứng nào cho điều đã nói. Lẽ nào các ngươi nói ra những điều mà các ngươi không biết?!

قُلْ إِنَّ الَّذِينَ يَفْتَرُونَ عَلَى اللَّهِ الْكَذِبَ لَا يُفْلِحُونَ(69)

 Ngươi (hỡi Thiên Sứ Muhammad) hãy nói với chúng: “Những ai đặt điều gian dối cho Allah sẽ không thành công.”

مَتَاعٌ فِي الدُّنْيَا ثُمَّ إِلَيْنَا مَرْجِعُهُمْ ثُمَّ نُذِيقُهُمُ الْعَذَابَ الشَّدِيدَ بِمَا كَانُوا يَكْفُرُونَ(70)

 (Những hưởng thụ mà chúng có được trên cuộc sống này chỉ) là một sự hưởng thụ (tạm bợ ngắn ngủi) của cuộc sống thế tục. Rồi đây, chúng sẽ phải trở về trình diện TA, rồi TA sẽ cho chúng nếm trải hình phạt nghiêm khắc về những gì mà chúng đã từng phủ nhận.

۞ وَاتْلُ عَلَيْهِمْ نَبَأَ نُوحٍ إِذْ قَالَ لِقَوْمِهِ يَا قَوْمِ إِن كَانَ كَبُرَ عَلَيْكُم مَّقَامِي وَتَذْكِيرِي بِآيَاتِ اللَّهِ فَعَلَى اللَّهِ تَوَكَّلْتُ فَأَجْمِعُوا أَمْرَكُمْ وَشُرَكَاءَكُمْ ثُمَّ لَا يَكُنْ أَمْرُكُمْ عَلَيْكُمْ غُمَّةً ثُمَّ اقْضُوا إِلَيَّ وَلَا تُنظِرُونِ(71)

 (Hỡi Thiên Sứ Muhammad!) Ngươi hãy kể cho (những kẻ đa thần) nghe về thông tin của Nuh, khi Y bảo người dân của mình: “Hỡi dân của Ta! Nếu địa vị của Ta cũng như sự nhắc nhở của Ta về các dấu hiệu của Allah trở thành gánh nặng cho các người thì Ta xin phó thác cho Allah. Vậy các người hãy quyết theo kế hoạch của các người, các người hãy kêu gọi các thần linh của các người đến hỗ trợ công việc của các người, rồi các người chớ để cho kế hoạch của các người có điều gì sơ suất, sau đó hãy (dùng nó) xử trí Ta và chớ cho Ta thời gian nghỉ ngơi.”

فَإِن تَوَلَّيْتُمْ فَمَا سَأَلْتُكُم مِّنْ أَجْرٍ ۖ إِنْ أَجْرِيَ إِلَّا عَلَى اللَّهِ ۖ وَأُمِرْتُ أَنْ أَكُونَ مِنَ الْمُسْلِمِينَ(72)

 “Nhưng nếu các người quay lưng lại (với lời khuyên của Ta) thì (các người hãy biết rằng) Ta đã không đòi các người thù lao. Quả thật, phần thưởng của Ta là ở nơi Allah và Ta được lệnh phải là một người Muslim (thần phục Ngài).”

فَكَذَّبُوهُ فَنَجَّيْنَاهُ وَمَن مَّعَهُ فِي الْفُلْكِ وَجَعَلْنَاهُمْ خَلَائِفَ وَأَغْرَقْنَا الَّذِينَ كَذَّبُوا بِآيَاتِنَا ۖ فَانظُرْ كَيْفَ كَانَ عَاقِبَةُ الْمُنذَرِينَ(73)

 Tuy nhiên, (người dân của Nuh) đã chối bỏ (Nuh). Vì vậy, TA đã giải cứu Y và cả những người (tin tưởng) cùng Y trên con tàu và TA đã để tất cả họ trở thành những người thừa kế. TA đã nhấn chìm những kẻ đã phủ nhận các dấu hiệu của TA. Ngươi (hỡi Thiên Sứ Muhammad) hãy nhìn xem hậu quả ra sao đối với những kẻ đã được cảnh báo.

ثُمَّ بَعَثْنَا مِن بَعْدِهِ رُسُلًا إِلَىٰ قَوْمِهِمْ فَجَاءُوهُم بِالْبَيِّنَاتِ فَمَا كَانُوا لِيُؤْمِنُوا بِمَا كَذَّبُوا بِهِ مِن قَبْلُ ۚ كَذَٰلِكَ نَطْبَعُ عَلَىٰ قُلُوبِ الْمُعْتَدِينَ(74)

 Rồi sau (Nuh), TA đã gởi rất nhiều Sứ Giả đến với người dân của Họ. (Các vị Sứ Giả này) đến với người dân của mình với những bằng chứng rõ ràng, nhưng họ đã không tin vào điều mà họ đã phủ nhận trước đó. Vì vậy, TA niêm kín con tim của những kẻ vượt quá giới hạn.

ثُمَّ بَعَثْنَا مِن بَعْدِهِم مُّوسَىٰ وَهَارُونَ إِلَىٰ فِرْعَوْنَ وَمَلَئِهِ بِآيَاتِنَا فَاسْتَكْبَرُوا وَكَانُوا قَوْمًا مُّجْرِمِينَ(75)

 Tiếp theo sau họ, TA đã cử phái Musa và Harun đến gặp Pha-ra-ông và các quân thần của hắn cùng với các dấu hiệu của TA nhưng bọn chúng cư xử kiêu ngạo và chúng là đám người tội lỗi.

فَلَمَّا جَاءَهُمُ الْحَقُّ مِنْ عِندِنَا قَالُوا إِنَّ هَٰذَا لَسِحْرٌ مُّبِينٌ(76)

 Khi cả hai mang chân lý từ nơi TA đến gặp bọn chúng thì bọn chúng bảo: “Thật ra, đây rõ ràng là trò ma thuật.”

قَالَ مُوسَىٰ أَتَقُولُونَ لِلْحَقِّ لَمَّا جَاءَكُمْ ۖ أَسِحْرٌ هَٰذَا وَلَا يُفْلِحُ السَّاحِرُونَ(77)

 Musa nói: “Các người nói về sự thật như thế khi nó đến với các người ư? Lẽ nào đây lại là trò ma thuật? Quả thật, những tên dùng trò ma thuật không thể nào thành công!”

قَالُوا أَجِئْتَنَا لِتَلْفِتَنَا عَمَّا وَجَدْنَا عَلَيْهِ آبَاءَنَا وَتَكُونَ لَكُمَا الْكِبْرِيَاءُ فِي الْأَرْضِ وَمَا نَحْنُ لَكُمَا بِمُؤْمِنِينَ(78)

 (Đám thuộc hạ của Pha-ra-ông) nói (với Musa): “Có phải ngươi mang điều này đến để lôi kéo bọn ta rời bỏ những gì mà bọn ta thấy được ở tổ tiên của bọn ta (đã làm trước đây) để rồi hai ngươi có thể hùng bá trong lãnh thổ này? Không, bọn ta sẽ không tin hai ngươi.”

وَقَالَ فِرْعَوْنُ ائْتُونِي بِكُلِّ سَاحِرٍ عَلِيمٍ(79)

 Pha-ra-ông nói (với đám thuộc hạ): “Các ngươi hãy triệu tập cho ta tất cả các vị pháp sư uyên bác.”

فَلَمَّا جَاءَ السَّحَرَةُ قَالَ لَهُم مُّوسَىٰ أَلْقُوا مَا أَنتُم مُّلْقُونَ(80)

 Vì vậy, khi các pháp sư đến, Musa nói với họ: “Các vị cứ ném xuống bất cứ thứ gì các vị muốn ném.”

فَلَمَّا أَلْقَوْا قَالَ مُوسَىٰ مَا جِئْتُم بِهِ السِّحْرُ ۖ إِنَّ اللَّهَ سَيُبْطِلُهُ ۖ إِنَّ اللَّهَ لَا يُصْلِحُ عَمَلَ الْمُفْسِدِينَ(81)

 Khi họ đã ném, Musa nói: “Những gì các vị mang đến chỉ là trò ma thuật. Chắc chắn Allah sẽ phá tan nó, bởi quả thật Ngài không để cho hành động của đám người dấy loạn bất tuân được thành công.”

وَيُحِقُّ اللَّهُ الْحَقَّ بِكَلِمَاتِهِ وَلَوْ كَرِهَ الْمُجْرِمُونَ(82)

 Allah thiết lập chân lý bằng các lời phán của Ngài cho dù những kẻ tội phạm không thích (điều đó).

فَمَا آمَنَ لِمُوسَىٰ إِلَّا ذُرِّيَّةٌ مِّن قَوْمِهِ عَلَىٰ خَوْفٍ مِّن فِرْعَوْنَ وَمَلَئِهِمْ أَن يَفْتِنَهُمْ ۚ وَإِنَّ فِرْعَوْنَ لَعَالٍ فِي الْأَرْضِ وَإِنَّهُ لَمِنَ الْمُسْرِفِينَ(83)

 Nhưng không ai tin Musa, ngoại trừ (một số) con cháu thuộc người dân của Y, vì sợ Pha-ra-ông và đám thuộc hạ của hắn bắt bớ. Quả thật, Pha-ra-ông đã kiêu ngạo trong lãnh thổ (Ai Cập) và hắn quả thật là một kẻ tàn bạo ác bá.

وَقَالَ مُوسَىٰ يَا قَوْمِ إِن كُنتُمْ آمَنتُم بِاللَّهِ فَعَلَيْهِ تَوَكَّلُوا إِن كُنتُم مُّسْلِمِينَ(84)

 Musa nói: “Hỡi dân của Ta, nếu các người thật sự tin tưởng nơi Allah thì hãy phó thác cho Ngài nếu các người là tín đồ Muslim (thần phục Ngài).”

فَقَالُوا عَلَى اللَّهِ تَوَكَّلْنَا رَبَّنَا لَا تَجْعَلْنَا فِتْنَةً لِّلْقَوْمِ الظَّالِمِينَ(85)

 Vậy là, người dân nói: “Bầy tôi nguyện phó thác cho Allah. Lạy Thượng Đế của bầy tôi, xin Ngài đừng biến bầy tôi thành một phương tiện thử thách cho những kẻ tàn bạo ác bá.”

وَنَجِّنَا بِرَحْمَتِكَ مِنَ الْقَوْمِ الْكَافِرِينَ(86)

 “Với lòng thương xót của Ngài, xin Ngài giải cứu bầy tôi khỏi đám người vô đức tin.”

وَأَوْحَيْنَا إِلَىٰ مُوسَىٰ وَأَخِيهِ أَن تَبَوَّءَا لِقَوْمِكُمَا بِمِصْرَ بُيُوتًا وَاجْعَلُوا بُيُوتَكُمْ قِبْلَةً وَأَقِيمُوا الصَّلَاةَ ۗ وَبَشِّرِ الْمُؤْمِنِينَ(87)

 TA đã mặc khải cho Musa và người anh (em) của Y: “Hai ngươi hãy để người dân của mình định cư ở Ai Cập trong những ngôi nhà, hãy dựng những ngôi nhà của các ngươi hướng về Qiblah (Đền Aqsa ở Palestine), rồi hãy dâng lễ nguyện Salah trong đó và hãy báo tin mừng cho những người có đức tin.

وَقَالَ مُوسَىٰ رَبَّنَا إِنَّكَ آتَيْتَ فِرْعَوْنَ وَمَلَأَهُ زِينَةً وَأَمْوَالًا فِي الْحَيَاةِ الدُّنْيَا رَبَّنَا لِيُضِلُّوا عَن سَبِيلِكَ ۖ رَبَّنَا اطْمِسْ عَلَىٰ أَمْوَالِهِمْ وَاشْدُدْ عَلَىٰ قُلُوبِهِمْ فَلَا يُؤْمِنُوا حَتَّىٰ يَرَوُا الْعَذَابَ الْأَلِيمَ(88)

 Musa cầu nguyện: “Lạy Thượng Đế của bề tôi, Ngài đã ban cho Pha-ra-ông và các tên đầu sỏ của hắn sự huy hoàng và phú quý trong cuộc sống trần tục này. Lạy Thượng Đế của bầy tôi, nhờ đó mà chúng đã dắt thiên hạ lạc khỏi con đường của Ngài. Lạy Thượng Đế của bầy tôi, xin Ngài phá hủy tài sản của họ và niêm kín con tim của họ để họ không tin tưởng cho đến khi họ đối diện với hình phạt đau đớn.”

قَالَ قَدْ أُجِيبَت دَّعْوَتُكُمَا فَاسْتَقِيمَا وَلَا تَتَّبِعَانِّ سَبِيلَ الَّذِينَ لَا يَعْلَمُونَ(89)

 (Allah) phán: “Lời cầu xin của hai anh em ngươi được TA chấp nhận. Vì vậy, hai ngươi hãy đi thẳng (trên chân lý) và chớ đừng chạy theo con đường của những kẻ không biết.”

۞ وَجَاوَزْنَا بِبَنِي إِسْرَائِيلَ الْبَحْرَ فَأَتْبَعَهُمْ فِرْعَوْنُ وَجُنُودُهُ بَغْيًا وَعَدْوًا ۖ حَتَّىٰ إِذَا أَدْرَكَهُ الْغَرَقُ قَالَ آمَنتُ أَنَّهُ لَا إِلَٰهَ إِلَّا الَّذِي آمَنَتْ بِهِ بَنُو إِسْرَائِيلَ وَأَنَا مِنَ الْمُسْلِمِينَ(90)

 TA đã đưa dân Israel băng qua biển (Hồng Hải), Pha-ra-ông và quân lính của hắn truy đuổi họ với lòng đầy câm phẫn và hận thù. Rồi đến khi (Pha-ra-ông) bị nhấn chìm dưới biển thì hắn mới nói: “Bề tôi đã tin rằng quả thật không có Thượng Đế nào ngoài Đấng mà dân Israel đã tin, và bề tôi xin là một người Muslim (thần phục Ngài).”

آلْآنَ وَقَدْ عَصَيْتَ قَبْلُ وَكُنتَ مِنَ الْمُفْسِدِينَ(91)

 (Allah phán:) “Bây giờ (nhà ngươi mới tin ư?) Chẳng phải trước đó ngươi vẫn còn đại nghịch và là một kẻ dấy loạn kia mà?”

فَالْيَوْمَ نُنَجِّيكَ بِبَدَنِكَ لِتَكُونَ لِمَنْ خَلْفَكَ آيَةً ۚ وَإِنَّ كَثِيرًا مِّنَ النَّاسِ عَنْ آيَاتِنَا لَغَافِلُونَ(92)

 Vì vậy, ngày nay TA (Allah) giữ thân xác của ngươi (Pha-ra-ông) lại để làm một dấu hiệu cho những ai sống sau ngươi. Tuy nhiên, hầu hết nhân loại đối với các dấu hiệu của TA vẫn lơ là và không chú ý đến.

وَلَقَدْ بَوَّأْنَا بَنِي إِسْرَائِيلَ مُبَوَّأَ صِدْقٍ وَرَزَقْنَاهُم مِّنَ الطَّيِّبَاتِ فَمَا اخْتَلَفُوا حَتَّىٰ جَاءَهُمُ الْعِلْمُ ۚ إِنَّ رَبَّكَ يَقْضِي بَيْنَهُمْ يَوْمَ الْقِيَامَةِ فِيمَا كَانُوا فِيهِ يَخْتَلِفُونَ(93)

 Quả thật, TA đã định cư dân Israel tại một nơi tốt lành (của vùng đất Sham hồng phúc) và ban phát cho họ bổng lộc tốt sạch. Họ đã không bất đồng nhau mãi đến khi nguồn kiến thức (Qur’an) đến với họ (xác nhận lại sứ mạng của Muhammad đã được nhắc đến trong Tawrah). Rồi đây, vào Ngày Phán Xét, Thượng Đế của Ngươi (Muhammad) sẽ phân xử giữa họ về những điều mà họ đã từng tranh chấp và bất đồng.

فَإِن كُنتَ فِي شَكٍّ مِّمَّا أَنزَلْنَا إِلَيْكَ فَاسْأَلِ الَّذِينَ يَقْرَءُونَ الْكِتَابَ مِن قَبْلِكَ ۚ لَقَدْ جَاءَكَ الْحَقُّ مِن رَّبِّكَ فَلَا تَكُونَنَّ مِنَ الْمُمْتَرِينَ(94)

 Cho nên, nếu như Ngươi (hỡi Thiên Sứ Muhammad) hoài nghi về những gì mà TA đã mặc khải cho Ngươi thì Ngươi hãy hỏi những ai đọc Kinh Sách thời trước Ngươi (như người Do Thái và Thiên Chúa). Quả thật, đó là chân lý từ Thượng Đế của Ngươi được mang đến cho Ngươi. Vì vậy, Ngươi chớ là kẻ sinh lòng hoài nghi.

وَلَا تَكُونَنَّ مِنَ الَّذِينَ كَذَّبُوا بِآيَاتِ اللَّهِ فَتَكُونَ مِنَ الْخَاسِرِينَ(95)

 Ngươi chớ đừng trở thành kẻ phủ nhận các dấu hiệu của Allah để rồi Ngươi trở thành một trong số những kẻ thất bại và thua thiệt.

إِنَّ الَّذِينَ حَقَّتْ عَلَيْهِمْ كَلِمَتُ رَبِّكَ لَا يُؤْمِنُونَ(96)

 Thật vậy, những ai mà Lời của Thượng Đế Ngươi (đã phán rằng chúng là những kẻ vô đức tin) thì chắc chắn sẽ không bao giờ có đức tin.

وَلَوْ جَاءَتْهُمْ كُلُّ آيَةٍ حَتَّىٰ يَرَوُا الْعَذَابَ الْأَلِيمَ(97)

 Và cho dù mọi dấu hiệu được trưng bày cho chúng (thì chúng vẫn không tin) cho đến khi chúng nhìn thấy hình phạt đau đớn.

فَلَوْلَا كَانَتْ قَرْيَةٌ آمَنَتْ فَنَفَعَهَا إِيمَانُهَا إِلَّا قَوْمَ يُونُسَ لَمَّا آمَنُوا كَشَفْنَا عَنْهُمْ عَذَابَ الْخِزْيِ فِي الْحَيَاةِ الدُّنْيَا وَمَتَّعْنَاهُمْ إِلَىٰ حِينٍ(98)

 (Trước đây) chưa từng có thị trấn nào đã có đức tin mà đức tin của nó giúp ích được dân chúng (sau khi lệnh trừng phạt đã được tuyên bố) ngoại trừ đám dân của Yunus. Khi họ đã có đức tin, TA đã giải thoát họ khỏi hình phạt nhục nhã trong cuộc sống trần gian này và cho họ tiếp tục sống hưởng lạc đến một thời hạn ấn định.

وَلَوْ شَاءَ رَبُّكَ لَآمَنَ مَن فِي الْأَرْضِ كُلُّهُمْ جَمِيعًا ۚ أَفَأَنتَ تُكْرِهُ النَّاسَ حَتَّىٰ يَكُونُوا مُؤْمِنِينَ(99)

 (Và thực sự) nếu như Thượng Đế của Ngươi (Muhammad) muốn, chắc chắc tất cả loài người trên trái đất này đều có đức tin. Lẽ nào Ngươi muốn ép buộc nhân loại trở thành những người có đức tin ư?!

وَمَا كَانَ لِنَفْسٍ أَن تُؤْمِنَ إِلَّا بِإِذْنِ اللَّهِ ۚ وَيَجْعَلُ الرِّجْسَ عَلَى الَّذِينَ لَا يَعْقِلُونَ(100)

 Không một linh hồn nào có đức tin nếu như không có phép của Allah và Ngài sẽ làm ô uế những ai không chịu dùng não bộ của mình để hiểu (chân lý).

قُلِ انظُرُوا مَاذَا فِي السَّمَاوَاتِ وَالْأَرْضِ ۚ وَمَا تُغْنِي الْآيَاتُ وَالنُّذُرُ عَن قَوْمٍ لَّا يُؤْمِنُونَ(101)

 Ngươi (hỡi Thiên Sứ Muhammad) hãy nói (với những kẻ đa thần): “Các ngươi hãy quan sát những gì trong trời đất!” Quả thật, đối với đám người vô đức tin thì cho dù có xuất hiện thêm các dấu hiệu lạ hoặc sự cảnh báo cũng vô ích đối với chúng.

فَهَلْ يَنتَظِرُونَ إِلَّا مِثْلَ أَيَّامِ الَّذِينَ خَلَوْا مِن قَبْلِهِمْ ۚ قُلْ فَانتَظِرُوا إِنِّي مَعَكُم مِّنَ الْمُنتَظِرِينَ(102)

 Phải chăng chúng chờ đợi (sự trừng phạt đã xảy ra) trong những ngày của những người đã đi trước chúng? Ngươi (hỡi Thiên Sứ Muhammad) hãy nói (với chúng): “Vậy các ngươi hãy cứ chờ đợi, quả thật Ta cũng sẽ chờ đợi cùng các ngươi.”

ثُمَّ نُنَجِّي رُسُلَنَا وَالَّذِينَ آمَنُوا ۚ كَذَٰلِكَ حَقًّا عَلَيْنَا نُنجِ الْمُؤْمِنِينَ(103)

 Sau khi (hình phạt giáng xuống), TA đã giải cứu các Sứ Giả của TA cùng với những người đã tin tưởng. Đó là trách nhiệm của TA trong việc giải cứu những người có đức tin.

قُلْ يَا أَيُّهَا النَّاسُ إِن كُنتُمْ فِي شَكٍّ مِّن دِينِي فَلَا أَعْبُدُ الَّذِينَ تَعْبُدُونَ مِن دُونِ اللَّهِ وَلَٰكِنْ أَعْبُدُ اللَّهَ الَّذِي يَتَوَفَّاكُمْ ۖ وَأُمِرْتُ أَنْ أَكُونَ مِنَ الْمُؤْمِنِينَ(104)

 Ngươi (hỡi Thiên Sứ Muhammad) hãy nói: “Hỡi nhân loại, nếu các ngươi hoài nghi về tôn giáo của Ta, Ta không thờ phượng các thần linh mà các ngươi thờ phượng ngoài Allah. Ta chỉ thờ phượng một mình Allah, Đấng làm cho các ngươi chết, và Ta được lệnh phải trở thành một người có đức tin.”

وَأَنْ أَقِمْ وَجْهَكَ لِلدِّينِ حَنِيفًا وَلَا تَكُونَنَّ مِنَ الْمُشْرِكِينَ(105)

 Và Ngươi hãy hướng mặt mình về tôn giáo thuần túy (chân lý) và chớ đừng bao giờ trở thành một trong những kẻ đa thần.

وَلَا تَدْعُ مِن دُونِ اللَّهِ مَا لَا يَنفَعُكَ وَلَا يَضُرُّكَ ۖ فَإِن فَعَلْتَ فَإِنَّكَ إِذًا مِّنَ الظَّالِمِينَ(106)

 Ngươi chớ đừng cầu nguyện ngoài Allah những thứ không mang lợi cũng chẳng gây hại được Ngươi. Nếu như Ngươi làm vậy, Ngươi thực sự là một trong những kẻ làm điều sai quấy.

وَإِن يَمْسَسْكَ اللَّهُ بِضُرٍّ فَلَا كَاشِفَ لَهُ إِلَّا هُوَ ۖ وَإِن يُرِدْكَ بِخَيْرٍ فَلَا رَادَّ لِفَضْلِهِ ۚ يُصِيبُ بِهِ مَن يَشَاءُ مِنْ عِبَادِهِ ۚ وَهُوَ الْغَفُورُ الرَّحِيمُ(107)

 Nếu Allah muốn điều hại chạm đến Ngươi thì chẳng có ai có khả năng loại bỏ nó khỏi Ngươi ngoại trừ Ngài, còn nếu Ngài muốn điều tốt lành cho Ngươi thì cũng chẳng có ai ngăn cản được thiên lộc đó (của Ngài). Ngài ban nó cho bất cứ ai Ngài muốn trong đám bề tôi của Ngài. Quả thật, Ngài là Đấng Tha Thứ, Đấng Nhân Từ.

قُلْ يَا أَيُّهَا النَّاسُ قَدْ جَاءَكُمُ الْحَقُّ مِن رَّبِّكُمْ ۖ فَمَنِ اهْتَدَىٰ فَإِنَّمَا يَهْتَدِي لِنَفْسِهِ ۖ وَمَن ضَلَّ فَإِنَّمَا يَضِلُّ عَلَيْهَا ۖ وَمَا أَنَا عَلَيْكُم بِوَكِيلٍ(108)

 Ngươi (hỡi Thiên Sứ Muhammad) hãy nói: “Hỡi loài người, quả thật, chân lý đã đến với các ngươi từ Thượng Đế của các ngươi. Vì vậy, ai được hướng dẫn thì thật ra y đã được hướng dẫn cho linh hồn mình, còn ai lạc lối thì việc lạc đó chỉ bất lợi cho linh hồn của y. Và Ta không phải là người phải chịu trách nhiệm cho các ngươi.”

وَاتَّبِعْ مَا يُوحَىٰ إِلَيْكَ وَاصْبِرْ حَتَّىٰ يَحْكُمَ اللَّهُ ۚ وَهُوَ خَيْرُ الْحَاكِمِينَ(109)

 Ngươi (hỡi Thiên Sứ Muhammad) hãy làm theo những gì đã được mặc khải cho Ngươi và Ngươi hãy kiên nhẫn chịu đựng cho đến khi Allah (thiết lập) cuộc phán xét. Quả thật, Ngài là Đấng Phân Xử ưu việt nhất.


Vietnamca diğer sureler:

Bakara suresi Âl-i İmrân Nisâ suresi
Mâide suresi Yûsuf suresi İbrâhîm suresi
Hicr suresi Kehf suresi Meryem suresi
Hac suresi Kasas suresi Ankebût suresi
As-Sajdah Yâsîn suresi Duhân suresi
fetih suresi Hucurât suresi Kâf suresi
Necm suresi Rahmân suresi vakıa suresi
Haşr suresi Mülk suresi Hâkka suresi
İnşikâk suresi Alâ suresi Gâşiye suresi

En ünlü okuyucuların sesiyle Yunus Suresi indirin:

Surah Yunus mp3: yüksek kalitede dinlemek ve indirmek için okuyucuyu seçerek
Yunus Suresi Ahmed El Agamy
Ahmed El Agamy
Yunus Suresi Saad Al Ghamdi
Saad Al Ghamdi
Yunus Suresi Saud Al Shuraim
Saud Al Shuraim
Yunus Suresi Abdul Basit Abdul Samad
Abdul Basit
Yunus Suresi Abdullah Basfar
Abdullah Basfar
Yunus Suresi Abdullah Awwad Al Juhani
Abdullah Al Juhani
Yunus Suresi Ali Al Hudhaifi
Ali Al Hudhaifi
Yunus Suresi Fares Abbad
Fares Abbad
Yunus Suresi Maher Al Muaiqly
Maher Al Muaiqly
Yunus Suresi Muhammad Jibril
Muhammad Jibril
Yunus Suresi Muhammad Siddiq Al Minshawi
Al Minshawi
Yunus Suresi Al Hosary
Al Hosary
Yunus Suresi Al-afasi
Mishari Al-afasi
Yunus Suresi Nasser Al Qatami
Nasser Al Qatami
Yunus Suresi Yasser Al Dosari
Yasser Al Dosari


Sunday, December 22, 2024

Bizim için dua et, teşekkürler