سورة الزخرف بالفيتنامية

  1. استمع للسورة
  2. سور أخرى
  3. ترجمة السورة
القرآن الكريم | ترجمة معاني القرآن | اللغة الفيتنامية | سورة الزخرف | Zukhruf - عدد آياتها 89 - رقم السورة في المصحف: 43 - معنى السورة بالإنجليزية: The Gold Adornments.

حم(1)

Ha. Mim.

وَالْكِتَابِ الْمُبِينِ(2)

Thề bởi Kinh (Qur’an) quang minh.

إِنَّا جَعَلْنَاهُ قُرْآنًا عَرَبِيًّا لَّعَلَّكُمْ تَعْقِلُونَ(3)

Quả thật, TA đã làm cho Nó thành một quyển Kinh để xướng đọc bằng tiếng Ả-rập, mong rằng các ngươi có thể hiểu.

وَإِنَّهُ فِي أُمِّ الْكِتَابِ لَدَيْنَا لَعَلِيٌّ حَكِيمٌ(4)

Quả thật, (Qur’an này) nguyên nằm trong Tập Kinh Mẹ (Lawhu Al-Mahfuzh) ở nơi TA, rất cao thâm, uyên bác.

أَفَنَضْرِبُ عَنكُمُ الذِّكْرَ صَفْحًا أَن كُنتُمْ قَوْمًا مُّسْرِفِينَ(5)

Lẽ nào TA phải lấy lại Lời Nhắc Nhở (Qur’an) khỏi các ngươi bởi vì các ngươi là đám người tội lỗi quá độ?! (TA không làm thế vì lòng nhân từ của TA dành cho các ngươi đòi hỏi điều ngược lại).

وَكَمْ أَرْسَلْنَا مِن نَّبِيٍّ فِي الْأَوَّلِينَ(6)

TA đã cử phái biết bao Nabi cho những cộng đồng thời trước!

وَمَا يَأْتِيهِم مِّن نَّبِيٍّ إِلَّا كَانُوا بِهِ يَسْتَهْزِئُونَ(7)

Tuy nhiên, không một Nabi nào đến với họ mà lại không bị họ nhạo báng, giễu cợt.

فَأَهْلَكْنَا أَشَدَّ مِنْهُم بَطْشًا وَمَضَىٰ مَثَلُ الْأَوَّلِينَ(8)

Vì vậy, TA đã tiêu diệt những kẻ mạnh nhất trong bọn họ; và hình ảnh của người xưa đã đi vào dĩ vãng.

وَلَئِن سَأَلْتَهُم مَّنْ خَلَقَ السَّمَاوَاتِ وَالْأَرْضَ لَيَقُولُنَّ خَلَقَهُنَّ الْعَزِيزُ الْعَلِيمُ(9)

Nếu Ngươi (Thiên Sứ) hỏi (những kẻ thờ đa thần) “Ai đã tạo ra các tầng trời và trái đất?” thì chắc chắn chúng sẽ nói: “Đấng Toàn Năng, Đấng Toàn Tri đã tạo ra.”

الَّذِي جَعَلَ لَكُمُ الْأَرْضَ مَهْدًا وَجَعَلَ لَكُمْ فِيهَا سُبُلًا لَّعَلَّكُمْ تَهْتَدُونَ(10)

(Allah là) Đấng đã làm trái đất như một chiếc giường ngủ cho các ngươi và đã làm ra trên nó những con đường cho các ngươi để đưa các ngươi đi đến (điểm cần đến).

وَالَّذِي نَزَّلَ مِنَ السَّمَاءِ مَاءً بِقَدَرٍ فَأَنشَرْنَا بِهِ بَلْدَةً مَّيْتًا ۚ كَذَٰلِكَ تُخْرَجُونَ(11)

(Ngài là) Đấng đã ban nước mưa từ trên trời xuống theo định lượng. TA (Allah) dùng (nước mưa) làm sống lại mảnh đất đã chết (khô cằn, nứt nẻ). (Rồi đây) các ngươi sẽ được dựng sống lại giống như thế.

وَالَّذِي خَلَقَ الْأَزْوَاجَ كُلَّهَا وَجَعَلَ لَكُم مِّنَ الْفُلْكِ وَالْأَنْعَامِ مَا تَرْكَبُونَ(12)

(Ngài là) Đấng đã tạo tất cả mọi vật thành từng cặp (đực cái, trống mái, âm dương) và (Ngài là Đấng) đã tạo cho các ngươi những con tàu và các loại gia súc để các ngươi cưỡi (và chuyên chở đồ đạc).

لِتَسْتَوُوا عَلَىٰ ظُهُورِهِ ثُمَّ تَذْكُرُوا نِعْمَةَ رَبِّكُمْ إِذَا اسْتَوَيْتُمْ عَلَيْهِ وَتَقُولُوا سُبْحَانَ الَّذِي سَخَّرَ لَنَا هَٰذَا وَمَا كُنَّا لَهُ مُقْرِنِينَ(13)

(Những con tàu, các loại gia súc, Ngài tạo chúng cho các ngươi) để các ngươi có thể ngồi vững trên lưng của chúng và sau đó các ngươi nhớ đến hồng phúc của Thượng Đế của các ngươi và nói: “Quang vinh thay Đấng đã chế ngự (phương tiện) này cho bầy tôi, bởi quả thật bầy tôi không đủ khả năng chế ngự nó.”

وَإِنَّا إِلَىٰ رَبِّنَا لَمُنقَلِبُونَ(14)

“Và bầy tôi chắc chắn sẽ trở về trình diện Thượng Đế của bầy tôi!”

وَجَعَلُوا لَهُ مِنْ عِبَادِهِ جُزْءًا ۚ إِنَّ الْإِنسَانَ لَكَفُورٌ مُّبِينٌ(15)

(Những kẻ đa thần) đã gán một số trong đám bề tôi của Ngài có phần chia sẻ (với Ngài khi họ nói: các Thiên Thần là những đứa con gái của Ngài). Quả thật, con người rõ ràng là kẻ vô ơn.

أَمِ اتَّخَذَ مِمَّا يَخْلُقُ بَنَاتٍ وَأَصْفَاكُم بِالْبَنِينَ(16)

(Này những kẻ đa thần!) Lẽ nào (Allah) chọn lấy những vật mà Ngài đã tạo ra làm những đứa con gái (của Ngài) và ưu ái đặc biệt cho các ngươi những đứa con trai?!

وَإِذَا بُشِّرَ أَحَدُهُم بِمَا ضَرَبَ لِلرَّحْمَٰنِ مَثَلًا ظَلَّ وَجْهُهُ مُسْوَدًّا وَهُوَ كَظِيمٌ(17)

Khi ai đó trong bọn chúng nhận được tin mừng (về sự ra đời một đứa con gái) mà chúng đã thường gán cho Đấng Ar-Rahman thì gương mặt của y tối sầm lại, (lòng của y) ngập tràn sự đau thương.

أَوَمَن يُنَشَّأُ فِي الْحِلْيَةِ وَهُوَ فِي الْخِصَامِ غَيْرُ مُبِينٍ(18)

Lẽ nào một người (phụ nữ)(1) được nuôi dưỡng trong các món trang sức và ăn nói không rành mạch (lại là kẻ phò tá cho Allah)?!

وَجَعَلُوا الْمَلَائِكَةَ الَّذِينَ هُمْ عِبَادُ الرَّحْمَٰنِ إِنَاثًا ۚ أَشَهِدُوا خَلْقَهُمْ ۚ سَتُكْتَبُ شَهَادَتُهُمْ وَيُسْأَلُونَ(19)

Chúng đã qui cho các Thiên Thần - những bề tôi của Đấng Ar-Rahman - là nữ giới. Lẽ nào chúng đã (tận mắt) chứng kiến việc (Ngài) đã tạo hóa các Thiên Thần?! Sự xác nhận của chúng sẽ được ghi lại và chúng sẽ bị tra hỏi.

وَقَالُوا لَوْ شَاءَ الرَّحْمَٰنُ مَا عَبَدْنَاهُم ۗ مَّا لَهُم بِذَٰلِكَ مِنْ عِلْمٍ ۖ إِنْ هُمْ إِلَّا يَخْرُصُونَ(20)

Chúng nói: “Nếu Đấng Ar-Rahman đã muốn thì bọn ta đã không tôn thờ họ rồi!” Chúng chẳng có một chút kiến thức nào về điều đó cả. Chúng chỉ đoán chừng mà thôi.

أَمْ آتَيْنَاهُمْ كِتَابًا مِّن قَبْلِهِ فَهُم بِهِ مُسْتَمْسِكُونَ(21)

Hoặc lẽ nào TA đã ban cho chúng một Kinh Sách trước (Qur’an này cho phép chúng thờ phượng ngoài TA) nên chúng cứ bám chắc theo đó?!

بَلْ قَالُوا إِنَّا وَجَدْنَا آبَاءَنَا عَلَىٰ أُمَّةٍ وَإِنَّا عَلَىٰ آثَارِهِم مُّهْتَدُونَ(22)

Không! Chúng thường bảo: “Bọn ta thấy cha ông của bọn ta theo một tôn giáo nào đó nên bọn ta đi theo dấu chân của họ.”

وَكَذَٰلِكَ مَا أَرْسَلْنَا مِن قَبْلِكَ فِي قَرْيَةٍ مِّن نَّذِيرٍ إِلَّا قَالَ مُتْرَفُوهَا إِنَّا وَجَدْنَا آبَاءَنَا عَلَىٰ أُمَّةٍ وَإِنَّا عَلَىٰ آثَارِهِم مُّقْتَدُونَ(23)

Tương tự như thế, không một vị cảnh báo nào trước Ngươi được TA cử phái đến cho một thị trấn mà những kẻ giàu có của thị trận đó lại không nói: “Bọn ta thấy cha ông của bọn ta theo một tôn giáo nào đó nên bọn ta đi theo dấu chân của họ.”

۞ قَالَ أَوَلَوْ جِئْتُكُم بِأَهْدَىٰ مِمَّا وَجَدتُّمْ عَلَيْهِ آبَاءَكُمْ ۖ قَالُوا إِنَّا بِمَا أُرْسِلْتُم بِهِ كَافِرُونَ(24)

(Vị cảnh báo của chúng) đã nói (với chúng): “Lẽ nào ngay cả việc Ta mang đến cho các ngươi một nguồn hướng dẫn tốt hơn cái mà các ngươi thấy cha mẹ của các ngươi đang theo ư?” Chúng đáp: “Bọn ta không tin nơi điều mà các ngươi mang đến!”

فَانتَقَمْنَا مِنْهُمْ ۖ فَانظُرْ كَيْفَ كَانَ عَاقِبَةُ الْمُكَذِّبِينَ(25)

Vì vậy, TA đã trừng phạt chúng. Ngươi hãy xem kết cuộc của những kẻ phủ nhận (các vị cảnh báo) đã xảy ra như thế nào!

وَإِذْ قَالَ إِبْرَاهِيمُ لِأَبِيهِ وَقَوْمِهِ إِنَّنِي بَرَاءٌ مِّمَّا تَعْبُدُونَ(26)

(Ngươi hãy nhớ lại - hỡi Thiên Sứ) khi Ibrahim nói với cha và người dân của mình: “Tôi không can hệ với những thần linh mà các người đang tôn thờ.”

إِلَّا الَّذِي فَطَرَنِي فَإِنَّهُ سَيَهْدِينِ(27)

“Tôi chỉ tôn thờ Đấng đã tạo ra tôi, bởi quả thật, Ngài sẽ hướng dẫn tôi.”

وَجَعَلَهَا كَلِمَةً بَاقِيَةً فِي عَقِبِهِ لَعَلَّهُمْ يَرْجِعُونَ(28)

(Ibrahim) đã làm cho nó (lời Tawhid: chỉ có Allah là Thượng Đế) thành một lời trường cửu cho hậu thế, mong rằng họ biết quay trở lại (với Ngài).

بَلْ مَتَّعْتُ هَٰؤُلَاءِ وَآبَاءَهُمْ حَتَّىٰ جَاءَهُمُ الْحَقُّ وَرَسُولٌ مُّبِينٌ(29)

Không! (Ngay cả khi những kẻ đa thần bắt đầu tôn thờ những thần linh khác ngoài TA, TA đã không tiêu diệt chúng) TA đã để cho chúng và cha ông của chúng tận hưởng (cuộc sống trần gian) cho đến khi Chân Lý (Qur’an) và một Sứ Giả minh bạch đến với chúng.

وَلَمَّا جَاءَهُمُ الْحَقُّ قَالُوا هَٰذَا سِحْرٌ وَإِنَّا بِهِ كَافِرُونَ(30)

Tuy nhiên, khi Chân Lý đến với chúng thì chúng lại nói: “Đây là trò ma thuật, bọn ta không tin nơi Nó.”

وَقَالُوا لَوْلَا نُزِّلَ هَٰذَا الْقُرْآنُ عَلَىٰ رَجُلٍ مِّنَ الْقَرْيَتَيْنِ عَظِيمٍ(31)

Và chúng nói: “Sao Qur’an này không được ban xuống cho những người (giàu có, chức quyền và tiếng tăm) của hai thị trấn lớn (như Makkah và Ta-if) kia chứ?!”

أَهُمْ يَقْسِمُونَ رَحْمَتَ رَبِّكَ ۚ نَحْنُ قَسَمْنَا بَيْنَهُم مَّعِيشَتَهُمْ فِي الْحَيَاةِ الدُّنْيَا ۚ وَرَفَعْنَا بَعْضَهُمْ فَوْقَ بَعْضٍ دَرَجَاتٍ لِّيَتَّخِذَ بَعْضُهُم بَعْضًا سُخْرِيًّا ۗ وَرَحْمَتُ رَبِّكَ خَيْرٌ مِّمَّا يَجْمَعُونَ(32)

Lẽ nào chúng toàn quyền phân chia hồng ân của Thượng Đế của Ngươi?! Chính TA (Allah) mới toàn quyền phân bổ sinh kế của chúng giữa chúng với nhau trong đời sống trần tục này. TA đã nâng một số người này trội hơn một số người khác về cấp bậc để cho người này bắt người kia phục dịch. Và hồng ân của Thượng Đế của Ngươi tốt hơn của cải mà chúng tích lũy.

وَلَوْلَا أَن يَكُونَ النَّاسُ أُمَّةً وَاحِدَةً لَّجَعَلْنَا لِمَن يَكْفُرُ بِالرَّحْمَٰنِ لِبُيُوتِهِمْ سُقُفًا مِّن فِضَّةٍ وَمَعَارِجَ عَلَيْهَا يَظْهَرُونَ(33)

Nếu không vì cản nhân loại trở thành một cộng đồng duy nhất (về sự vô đức tin) thì TA đã làm cho những kẻ phủ nhận Đấng Ar-Rahman có được những mái nhà bằng bạc và cả cầu thang để chúng đi lên;

وَلِبُيُوتِهِمْ أَبْوَابًا وَسُرُرًا عَلَيْهَا يَتَّكِئُونَ(34)

Và những cửa nhà của chúng (cũng bằng bạc) và những chiếc tràng kỷ để chúng nằm nghỉ;

وَزُخْرُفًا ۚ وَإِن كُلُّ ذَٰلِكَ لَمَّا مَتَاعُ الْحَيَاةِ الدُّنْيَا ۚ وَالْآخِرَةُ عِندَ رَبِّكَ لِلْمُتَّقِينَ(35)

Và những món đồ trang trí bằng vàng. Nhưng tất cả những thứ đó chỉ là sự hưởng thụ (tạm bợ) của đời sống trần tục này. (Còn những gì của cuộc sống) Đời Sau ở nơi Thượng Đế của Ngươi mới là (sự hưởng thụ trường tồn) dành cho những người ngoan đạo.

وَمَن يَعْشُ عَن ذِكْرِ الرَّحْمَٰنِ نُقَيِّضْ لَهُ شَيْطَانًا فَهُوَ لَهُ قَرِينٌ(36)

Người nào thờ ơ trước lời nhắc nhở của Đấng Ar-Rahman, TA sẽ để Shaytan làm bạn với y.

وَإِنَّهُمْ لَيَصُدُّونَهُمْ عَنِ السَّبِيلِ وَيَحْسَبُونَ أَنَّهُم مُّهْتَدُونَ(37)

Quả thật, (những tên Shaytan) này chắc chắn sẽ ngăn chúng khỏi con đường (của Allah), tuy nhiên, chúng cứ tưởng chúng đang được hướng dẫn.

حَتَّىٰ إِذَا جَاءَنَا قَالَ يَا لَيْتَ بَيْنِي وَبَيْنَكَ بُعْدَ الْمَشْرِقَيْنِ فَبِئْسَ الْقَرِينُ(38)

Cho tới khi y đến trình diện TA, y bảo (người bạn Shaytan của mình): “Ước gì ta với ngươi ở cách xa nhau bằng khoảng cách của hai phương đông. Thật tồi tệ thay một người bạn như thế!”

وَلَن يَنفَعَكُمُ الْيَوْمَ إِذ ظَّلَمْتُمْ أَنَّكُمْ فِي الْعَذَابِ مُشْتَرِكُونَ(39)

(Allah phán với những kẻ vô đức tin vào Ngày Phán Xét:) “(Lời trách móc) chẳng giúp ích được gì cho các ngươi trong ngày hôm nay khi các ngươi đã làm điều sai quấy. Các ngươi phải cùng san sẻ trong sự trừng phạt.”

أَفَأَنتَ تُسْمِعُ الصُّمَّ أَوْ تَهْدِي الْعُمْيَ وَمَن كَانَ فِي ضَلَالٍ مُّبِينٍ(40)

Làm sao Ngươi (hỡi Thiên Sứ) có thể khiến cho người điếc nghe được hoặc có thể hướng dẫn một kẻ mù lòa hoặc ai đó đang lạc lối rõ ràng?!

فَإِمَّا نَذْهَبَنَّ بِكَ فَإِنَّا مِنْهُم مُّنتَقِمُونَ(41)

Dù TA có đưa Ngươi đi (bằng cái chết) trước (khi TA trừng phạt chúng) thì chắc chắn TA vẫn phải trừng phạt chúng (ở đời này và cả Đời Sau).

أَوْ نُرِيَنَّكَ الَّذِي وَعَدْنَاهُمْ فَإِنَّا عَلَيْهِم مُّقْتَدِرُونَ(42)

Hoặc dù TA cho Ngươi (sự trừng phạt) mà TA đã hứa với chúng thì TA thực sự thừa khả năng làm thế.

فَاسْتَمْسِكْ بِالَّذِي أُوحِيَ إِلَيْكَ ۖ إِنَّكَ عَلَىٰ صِرَاطٍ مُّسْتَقِيمٍ(43)

Vì vậy, Ngươi hãy nắm chắc những gì đã được mặc khải cho Ngươi. Quả thật, Ngươi đang ở trên con đường ngay thẳng (chính đạo).

وَإِنَّهُ لَذِكْرٌ لَّكَ وَلِقَوْمِكَ ۖ وَسَوْفَ تُسْأَلُونَ(44)

Quả thật, Nó (Qur’an) là sự nhắc nhở dành cho Ngươi và người dân của Ngươi, và rồi đây các ngươi sẽ bị chất vấn (về Nó).

وَاسْأَلْ مَنْ أَرْسَلْنَا مِن قَبْلِكَ مِن رُّسُلِنَا أَجَعَلْنَا مِن دُونِ الرَّحْمَٰنِ آلِهَةً يُعْبَدُونَ(45)

Ngươi hãy hỏi những Sứ Giả mà TA đã cử đến trước Ngươi xem TA có chỉ định những thần linh được tôn thờ ngoài Đấng Ar-Rahman không?

وَلَقَدْ أَرْسَلْنَا مُوسَىٰ بِآيَاتِنَا إِلَىٰ فِرْعَوْنَ وَمَلَئِهِ فَقَالَ إِنِّي رَسُولُ رَبِّ الْعَالَمِينَ(46)

Quả thật, TA đã cử Musa mang những phép lạ của TA đến gặp Pha-ra-ông và các thủ lĩnh của hắn, Musa nói với chúng: “Ta đích thực là Sứ Giả của Thượng Đế của vũ trụ và vạn vật.”

فَلَمَّا جَاءَهُم بِآيَاتِنَا إِذَا هُم مِّنْهَا يَضْحَكُونَ(47)

Nhưng khi (Musa) mang những phép lạ của TA đến gặp chúng thì chúng cười nhạo cho những phép lạ đó.

وَمَا نُرِيهِم مِّنْ آيَةٍ إِلَّا هِيَ أَكْبَرُ مِنْ أُخْتِهَا ۖ وَأَخَذْنَاهُم بِالْعَذَابِ لَعَلَّهُمْ يَرْجِعُونَ(48)

TA lần lượt cho chúng thấy các phép lạ, cái sau lớn hơn cái trước, và TA đã trừng phạt chúng, mong chúng (biết thức tỉnh) mà quay về (với chính đạo).

وَقَالُوا يَا أَيُّهَ السَّاحِرُ ادْعُ لَنَا رَبَّكَ بِمَا عَهِدَ عِندَكَ إِنَّنَا لَمُهْتَدُونَ(49)

Chúng bảo (Musa): “Này tên phù thủy! Ngươi hãy cầu xin Thượng Đế của Ngươi giúp bọn ta thoát khỏi những gì mà Ngài đã hứa với Ngươi, chắc chắn lúc đó bọn ta sẽ được hướng dẫn đúng đường.”

فَلَمَّا كَشَفْنَا عَنْهُمُ الْعَذَابَ إِذَا هُمْ يَنكُثُونَ(50)

Tuy nhiên, khi TA lấy đi khỏi chúng sự trừng phạt thì chúng phá vỡ lời hứa (của chúng).

وَنَادَىٰ فِرْعَوْنُ فِي قَوْمِهِ قَالَ يَا قَوْمِ أَلَيْسَ لِي مُلْكُ مِصْرَ وَهَٰذِهِ الْأَنْهَارُ تَجْرِي مِن تَحْتِي ۖ أَفَلَا تُبْصِرُونَ(51)

Pha-ra-ông đã tuyên bố với đám dân của hắn: “Này hỡi dân ta! Chẳng phải quyền thống trị xứ Ai Cập (này) cũng như những con sông đang chảy bên dưới ta đều nằm trong tay ta đó sao? Lẽ nào các ngươi không nhìn thấy?”

أَمْ أَنَا خَيْرٌ مِّنْ هَٰذَا الَّذِي هُوَ مَهِينٌ وَلَا يَكَادُ يُبِينُ(52)

“Hoặc lẽ nào ta không trội hơn tên (Musa) này, một kẻ đáng khinh và ăn nói không được lưu loát?”

فَلَوْلَا أُلْقِيَ عَلَيْهِ أَسْوِرَةٌ مِّن ذَهَبٍ أَوْ جَاءَ مَعَهُ الْمَلَائِكَةُ مُقْتَرِنِينَ(53)

“Đúng ra y phải được ban cho vòng vàng hoặc phải được Thiên Thần tháp tùng, (như thế mới hợp lý)!”

فَاسْتَخَفَّ قَوْمَهُ فَأَطَاعُوهُ ۚ إِنَّهُمْ كَانُوا قَوْمًا فَاسِقِينَ(54)

(Pha-ra-ông) đã đánh lừa người dân của hắn khiến chúng theo hắn. Quả thật, chúng là một đám người bất tuân và nổi loạn.

فَلَمَّا آسَفُونَا انتَقَمْنَا مِنْهُمْ فَأَغْرَقْنَاهُمْ أَجْمَعِينَ(55)

Vì vậy, khi chúng chọc giận TA, TA đã bắt phạt chúng. TA đã nhấn chìm tất cả bọn chúng (trong biển hồng hải).

فَجَعَلْنَاهُمْ سَلَفًا وَمَثَلًا لِّلْآخِرِينَ(56)

TA đã lấy chúng làm một tiền lệ và bài học cho hậu thế.

۞ وَلَمَّا ضُرِبَ ابْنُ مَرْيَمَ مَثَلًا إِذَا قَوْمُكَ مِنْهُ يَصِدُّونَ(57)

Khi con trai (Ysa) của Maryam được đưa ra làm một hình ảnh thí dụ(2) thì người dân của Ngươi (Thiên Sứ) la ó (phản đối) về điều đó.

وَقَالُوا أَآلِهَتُنَا خَيْرٌ أَمْ هُوَ ۚ مَا ضَرَبُوهُ لَكَ إِلَّا جَدَلًا ۚ بَلْ هُمْ قَوْمٌ خَصِمُونَ(58)

Chúng bảo: “Những thần linh của bọn ta tốt hay (Ysa) tốt hơn?” Chúng đưa vấn đề đó ra cho Ngươi chỉ vì muốn tranh cãi mà thôi. Không! Chúng đích thực là một đám người thích tranh cãi.

إِنْ هُوَ إِلَّا عَبْدٌ أَنْعَمْنَا عَلَيْهِ وَجَعَلْنَاهُ مَثَلًا لِّبَنِي إِسْرَائِيلَ(59)

(Ysa) chỉ là một người bề tôi (của TA). TA đã ban ân cho Y (khi cử phái Y làm Sứ Giả của TA) và lấy Y làm một tấm gương cho con cháu của Israel.

وَلَوْ نَشَاءُ لَجَعَلْنَا مِنكُم مَّلَائِكَةً فِي الْأَرْضِ يَخْلُفُونَ(60)

Nếu muốn, TA đã thay thế các ngươi (hỡi con cháu Adam) bởi các Thiên Thần để Họ nối tiếp nhau trên trái đất.

وَإِنَّهُ لَعِلْمٌ لِّلسَّاعَةِ فَلَا تَمْتَرُنَّ بِهَا وَاتَّبِعُونِ ۚ هَٰذَا صِرَاطٌ مُّسْتَقِيمٌ(61)

(Ysa) thực sự là một dấu hiệu (báo trước) cho Giờ Tận Thế sắp xảy ra, vì vậy, các ngươi chớ đừng hoài nghi về điều đó mà hãy theo TA. Đây là con đường ngay chính.

وَلَا يَصُدَّنَّكُمُ الشَّيْطَانُ ۖ إِنَّهُ لَكُمْ عَدُوٌّ مُّبِينٌ(62)

Các ngươi đừng để Shaytan cản trở các ngươi (theo con đường ngay chính). Hắn thực sự là kẻ thù công khai của các ngươi.

وَلَمَّا جَاءَ عِيسَىٰ بِالْبَيِّنَاتِ قَالَ قَدْ جِئْتُكُم بِالْحِكْمَةِ وَلِأُبَيِّنَ لَكُم بَعْضَ الَّذِي تَخْتَلِفُونَ فِيهِ ۖ فَاتَّقُوا اللَّهَ وَأَطِيعُونِ(63)

Khi Ysa đến với những bằng chứng rõ ràng, Y nói: “Quả thật, Ta mang đến cho các người điều khôn ngoan và Ta đến để làm sáng tỏ một vài điểm mà các người bất đồng nhau. Vì vậy, các ngươi hãy sợ Allah và vâng lời Ta.”

إِنَّ اللَّهَ هُوَ رَبِّي وَرَبُّكُمْ فَاعْبُدُوهُ ۚ هَٰذَا صِرَاطٌ مُّسْتَقِيمٌ(64)

“Thật vậy, Allah là Thượng Đế của Ta và là Thượng Đế của các người, vì vậy, các người hãy thờ phượng Ngài. Đây là con đường ngay thẳng (chính đạo).”

فَاخْتَلَفَ الْأَحْزَابُ مِن بَيْنِهِمْ ۖ فَوَيْلٌ لِّلَّذِينَ ظَلَمُوا مِنْ عَذَابِ يَوْمٍ أَلِيمٍ(65)

Tuy nhiên, các giáo phái trong số chúng đã bất đồng với nhau (về sự việc của Ysa). Vì vậy, thật khốn cho những kẻ làm điều sai quấy về sự trừng phạt của Ngày đau đớn!

هَلْ يَنظُرُونَ إِلَّا السَّاعَةَ أَن تَأْتِيَهُم بَغْتَةً وَهُمْ لَا يَشْعُرُونَ(66)

Có phải chúng chỉ đang chờ đợi Giờ Tận Thế bất ngờ xảy đến trong lúc chúng không hay biết gì chăng?!

الْأَخِلَّاءُ يَوْمَئِذٍ بَعْضُهُمْ لِبَعْضٍ عَدُوٌّ إِلَّا الْمُتَّقِينَ(67)

Những người bạn thân tình vào Ngày đó sẽ trở thành kẻ thù của nhau ngoại trừ những người ngoan đạo.

يَا عِبَادِ لَا خَوْفٌ عَلَيْكُمُ الْيَوْمَ وَلَا أَنتُمْ تَحْزَنُونَ(68)

(Allah sẽ phán bảo họ): “Hỡi bầy tôi của TA! Ngày hôm nay, các ngươi sẽ không lo sợ cũng sẽ không buồn phiền.”

الَّذِينَ آمَنُوا بِآيَاتِنَا وَكَانُوا مُسْلِمِينَ(69)

“(Các ngươi là) những người đã có đức tin nơi các Lời Mặc Khải của TA và là những người Muslim (qui phục TA).”

ادْخُلُوا الْجَنَّةَ أَنتُمْ وَأَزْوَاجُكُمْ تُحْبَرُونَ(70)

“Các ngươi hãy vào Thiên Đàng cùng với vợ của các ngươi.”

يُطَافُ عَلَيْهِم بِصِحَافٍ مِّن ذَهَبٍ وَأَكْوَابٍ ۖ وَفِيهَا مَا تَشْتَهِيهِ الْأَنفُسُ وَتَلَذُّ الْأَعْيُنُ ۖ وَأَنتُمْ فِيهَا خَالِدُونَ(71)

Đĩa ăn và tách uống bằng vàng sẽ được chuyền đi vòng quanh họ. Trong đó, có bất cứ thứ gì linh hồn mong ước và (những gì) mê hoặc đôi mắt. Và các ngươi (hỡi những người ngoan đạo) sẽ ở trong đó mãi mãi.

وَتِلْكَ الْجَنَّةُ الَّتِي أُورِثْتُمُوهَا بِمَا كُنتُمْ تَعْمَلُونَ(72)

Đó là Thiên Đàng mà các ngươi sẽ thừa hưởng bởi những việc (hành đạo) mà các ngươi đã từng làm (trên thế gian).

لَكُمْ فِيهَا فَاكِهَةٌ كَثِيرَةٌ مِّنْهَا تَأْكُلُونَ(73)

Trong đó, các ngươi sẽ có nhiều loại hoa quả để ăn.

إِنَّ الْمُجْرِمِينَ فِي عَذَابِ جَهَنَّمَ خَالِدُونَ(74)

Thật vậy, những tên tội lỗi sẽ ở trong sự trừng phạt của Hỏa Ngục, chúng vĩnh viễn (ở lại đó).

لَا يُفَتَّرُ عَنْهُمْ وَهُمْ فِيهِ مُبْلِسُونَ(75)

Trong đó, chúng sẽ không được giảm nhẹ hình phạt và chúng sẽ vô cùng tuyệt vọng.

وَمَا ظَلَمْنَاهُمْ وَلَٰكِن كَانُوا هُمُ الظَّالِمِينَ(76)

TA đã không bất công với chúng mà chính chúng là những kẻ bất công (với bản thân chúng).

وَنَادَوْا يَا مَالِكُ لِيَقْضِ عَلَيْنَا رَبُّكَ ۖ قَالَ إِنَّكُم مَّاكِثُونَ(77)

Chúng sẽ kêu la (van xin): “Hỡi vị cai quản (Hỏa Ngục)! Hãy xin Thượng Đế của ngài chấm dứt chúng tôi cho xong! (Vị cai quản Hỏa Ngục) đáp: “Chắc các ngươi sẽ phải vĩnh viễn ở lại đây.”

لَقَدْ جِئْنَاكُم بِالْحَقِّ وَلَٰكِنَّ أَكْثَرَكُمْ لِلْحَقِّ كَارِهُونَ(78)

Quả thật, TA (Allah) đã mang Chân Lý đến cho các ngươi nhưng đa số các ngươi ghét Chân Lý.

أَمْ أَبْرَمُوا أَمْرًا فَإِنَّا مُبْرِمُونَ(79)

Lẽ nào chúng sắp đặt công việc?! Không, chính TA mới là Đấng sắp đặt.

أَمْ يَحْسَبُونَ أَنَّا لَا نَسْمَعُ سِرَّهُمْ وَنَجْوَاهُم ۚ بَلَىٰ وَرُسُلُنَا لَدَيْهِمْ يَكْتُبُونَ(80)

Hoặc lẽ nào chúng nghĩ rằng TA không nghe thấy những điều bí mật và những cuộc trò chuyện riêng tư của chúng?! Không, các Sứ Giả của TA luôn ở cạnh chúng không ngừng ghi chép lại.

قُلْ إِن كَانَ لِلرَّحْمَٰنِ وَلَدٌ فَأَنَا أَوَّلُ الْعَابِدِينَ(81)

Ngươi (Thiên Sứ) hãy nói với chúng: “Nếu Đấng Ar-Rahman có một đứa con trai thì Ta sẽ là người thờ phượng đầu tiên.”

سُبْحَانَ رَبِّ السَّمَاوَاتِ وَالْأَرْضِ رَبِّ الْعَرْشِ عَمَّا يَصِفُونَ(82)

Quang vinh và trong sạch thay Thượng Đế của các tầng trời và trái đất, Thượng Đế của chiếc Ngai Vương, Ngài vượt hẳn những gì chúng đã qui cho Ngài.

فَذَرْهُمْ يَخُوضُوا وَيَلْعَبُوا حَتَّىٰ يُلَاقُوا يَوْمَهُمُ الَّذِي يُوعَدُونَ(83)

Vì vậy, Ngươi hãy cứ để mặc chúng trò chuyện một cách vô ích và cứ để mặc chúng vui chơi thỏa thích cho đến khi chúng đối diện với Ngày mà chúng đã được hứa.

وَهُوَ الَّذِي فِي السَّمَاءِ إِلَٰهٌ وَفِي الْأَرْضِ إِلَٰهٌ ۚ وَهُوَ الْحَكِيمُ الْعَلِيمُ(84)

Ngài (Allah) là Thượng Đế (duy nhất) trên trời và là Thượng Đế (duy nhất) trên trái đất; Ngài là Đấng Chí Minh, Đấng Toàn Tri.

وَتَبَارَكَ الَّذِي لَهُ مُلْكُ السَّمَاوَاتِ وَالْأَرْضِ وَمَا بَيْنَهُمَا وَعِندَهُ عِلْمُ السَّاعَةِ وَإِلَيْهِ تُرْجَعُونَ(85)

Phúc thay Đấng nắm quyền thống trị các tầng trời, trái đất và vạn vật giữa trời đất; Ngài biết rõ Giờ Tận Thế và tất cả các ngươi sẽ được đưa trở về trình diện Ngài.

وَلَا يَمْلِكُ الَّذِينَ يَدْعُونَ مِن دُونِهِ الشَّفَاعَةَ إِلَّا مَن شَهِدَ بِالْحَقِّ وَهُمْ يَعْلَمُونَ(86)

Những kẻ mà chúng khấn vái ngoài Allah không có quyền can thiệp (ở nơi Allah) ngoại trừ những ai chứng nhận Chân Lý và hiểu biết rõ (về Nó).

وَلَئِن سَأَلْتَهُم مَّنْ خَلَقَهُمْ لَيَقُولُنَّ اللَّهُ ۖ فَأَنَّىٰ يُؤْفَكُونَ(87)

Nếu Ngươi có hỏi chúng “Ai đã tạo hóa các người?” thì chúng chắc chắn sẽ trả lời “Allah!” Vậy, sao chúng lại lánh xa Ngài?!

وَقِيلِهِ يَا رَبِّ إِنَّ هَٰؤُلَاءِ قَوْمٌ لَّا يُؤْمِنُونَ(88)

(Allah thừa nhận) lời than của Thiên Sứ: “Lạy Thượng Đế của bề tôi! Dân chúng của bề tôi đã không có đức tin.”

فَاصْفَحْ عَنْهُمْ وَقُلْ سَلَامٌ ۚ فَسَوْفَ يَعْلَمُونَ(89)

Vì vậy, Ngươi hãy lánh xa chúng và nói: “Chào bằng an!” Rồi đây chúng sẽ biết (hình phạt mà chúng sẽ phải đối mặt).


المزيد من السور باللغة الفيتنامية:

سورة البقرة آل عمران سورة النساء
سورة المائدة سورة يوسف سورة ابراهيم
سورة الحجر سورة الكهف سورة مريم
سورة السجدة سورة يس سورة الدخان
سورة النجم سورة الرحمن سورة الواقعة
سورة الحشر سورة الملك سورة الحاقة

تحميل سورة الزخرف بصوت أشهر القراء :

قم باختيار القارئ للاستماع و تحميل سورة الزخرف كاملة بجودة عالية
سورة الزخرف أحمد العجمي
أحمد العجمي
سورة الزخرف خالد الجليل
خالد الجليل
سورة الزخرف سعد الغامدي
سعد الغامدي
سورة الزخرف سعود الشريم
سعود الشريم
سورة الزخرف عبد الباسط عبد الصمد
عبد الباسط
سورة الزخرف عبد الله عواد الجهني
عبد الله الجهني
سورة الزخرف علي الحذيفي
علي الحذيفي
سورة الزخرف فارس عباد
فارس عباد
سورة الزخرف ماهر المعيقلي
ماهر المعيقلي
سورة الزخرف محمد جبريل
محمد جبريل
سورة الزخرف محمد صديق المنشاوي
المنشاوي
سورة الزخرف الحصري
الحصري
سورة الزخرف العفاسي
مشاري العفاسي
سورة الزخرف ناصر القطامي
ناصر القطامي
سورة الزخرف ياسر الدوسري
ياسر الدوسري



Thursday, November 21, 2024

لا تنسنا من دعوة صالحة بظهر الغيب