Перевод суры Аль-Анбия на вьетнамский язык

  1. Сура mp3
  2. Другие суры
  3. вьетнамский
Священный Коран | Перевод Корана | Язык вьетнамский | Сура Аль-Анбия | الأنبياء - получите точный и надежный вьетнамский текст сейчас - Количество аятов: 112 - Номер суры в мушафе: 21 - Значение названия суры на русском языке: The Prophets.

اقْتَرَبَ لِلنَّاسِ حِسَابُهُمْ وَهُمْ فِي غَفْلَةٍ مُّعْرِضُونَ(1)

 Việc xét xử nhân loại (vào Ngày Phán Xét Cuối Cùng) đang đến gần nhưng họ vẫn ngoảnh mặt làm ngơ.

مَا يَأْتِيهِم مِّن ذِكْرٍ مِّن رَّبِّهِم مُّحْدَثٍ إِلَّا اسْتَمَعُوهُ وَهُمْ يَلْعَبُونَ(2)

 Bất cứ điều nhắc nhở mới nào từ Thượng Đế của họ đến với họ, họ đều chỉ nghe nó với thái độ bỡn cợt.

لَاهِيَةً قُلُوبُهُمْ ۗ وَأَسَرُّوا النَّجْوَى الَّذِينَ ظَلَمُوا هَلْ هَٰذَا إِلَّا بَشَرٌ مِّثْلُكُمْ ۖ أَفَتَأْتُونَ السِّحْرَ وَأَنتُمْ تُبْصِرُونَ(3)

 Trái tim của họ thờ ơ. Những kẻ sai quấy đã hội đàm bí mật: “Chẳng phải kẻ này cũng chỉ là một người phàm giống như các người sao? Chẳng lẽ các người bị mê hoặc bởi pháp thuật của hắn trong lúc các người nhận thức rõ (rằng hắn cũng chỉ là người phàm ư)?”

قَالَ رَبِّي يَعْلَمُ الْقَوْلَ فِي السَّمَاءِ وَالْأَرْضِ ۖ وَهُوَ السَّمِيعُ الْعَلِيمُ(4)

 (Thiên Sứ Muhammad) bảo họ: “Thượng Đế của Ta biết rõ từng lời nói trong các tầng trời và trái đất bởi Ngài là Đấng Hằng Nghe, Đấng Hằng Biết.”

بَلْ قَالُوا أَضْغَاثُ أَحْلَامٍ بَلِ افْتَرَاهُ بَلْ هُوَ شَاعِرٌ فَلْيَأْتِنَا بِآيَةٍ كَمَا أُرْسِلَ الْأَوَّلُونَ(5)

 (Họ bối rối về những gì Thiên Sứ Muhammad mang đến, có lúc) họ bảo: “Toàn là những giấc mộng lộn xộn” (Có lúc họ bảo): “Không, hắn chỉ bịa đặt ra mà thôi” (Và có lúc họ lại bảo): “Không, hắn là một nhà thơ; chúng ta hãy bảo hắn mang đến cho chúng ta một phép lạ giống như những cái đã được ban cấp cho các vị Thiên Sứ trước kia (nếu như hắn nói thật).”

مَا آمَنَتْ قَبْلَهُم مِّن قَرْيَةٍ أَهْلَكْنَاهَا ۖ أَفَهُمْ يُؤْمِنُونَ(6)

 Trước họ, các thị trấn đã bị TA tiêu diệt đều đã không có đức tin. Chẳng lẽ họ sẽ có đức tin hay sao?

وَمَا أَرْسَلْنَا قَبْلَكَ إِلَّا رِجَالًا نُّوحِي إِلَيْهِمْ ۖ فَاسْأَلُوا أَهْلَ الذِّكْرِ إِن كُنتُمْ لَا تَعْلَمُونَ(7)

 Và trước Ngươi (Thiên Sứ Muhammad), những Sứ Giả mà TA đã cử đến đều là những người đàn ông phàm tục được TA mặc khải. Cho nên, các ngươi hãy hỏi những người của Kinh Sách nếu các ngươi không biết.

وَمَا جَعَلْنَاهُمْ جَسَدًا لَّا يَأْكُلُونَ الطَّعَامَ وَمَا كَانُوا خَالِدِينَ(8)

 Và TA đã không làm cho họ (các Sứ Giả của TA) thành một cơ thể không ăn uống và họ cũng không phải là những người bất tử.

ثُمَّ صَدَقْنَاهُمُ الْوَعْدَ فَأَنجَيْنَاهُمْ وَمَن نَّشَاءُ وَأَهْلَكْنَا الْمُسْرِفِينَ(9)

 Rồi TA đã hoàn tất Lời hứa đối với họ. TA đã cứu sống họ và những ai mà TA muốn. Và TA đã tiêu diệt những kẻ tội lỗi và phản nghịch.

لَقَدْ أَنزَلْنَا إِلَيْكُمْ كِتَابًا فِيهِ ذِكْرُكُمْ ۖ أَفَلَا تَعْقِلُونَ(10)

 Quả thật, TA đã ban xuống cho các ngươi một Kinh Sách (Qur’an), trong đó, là nguồn nhắc nhở cho các ngươi. Thế chẳng lẽ các ngươi không hiểu (điều đó) ư?

وَكَمْ قَصَمْنَا مِن قَرْيَةٍ كَانَتْ ظَالِمَةً وَأَنشَأْنَا بَعْدَهَا قَوْمًا آخَرِينَ(11)

 Đã biết bao thị trấn bị TA tiêu diệt vì đã làm điều sai quấy, và sau họ, TA đã tạo ra một đám người khác!

فَلَمَّا أَحَسُّوا بَأْسَنَا إِذَا هُم مِّنْهَا يَرْكُضُونَ(12)

 (Những kẻ bị tiêu diệt đó), khi họ thấy sự trừng phạt của TA thì họ sợ hãi bỏ chạy tán loạn.

لَا تَرْكُضُوا وَارْجِعُوا إِلَىٰ مَا أُتْرِفْتُمْ فِيهِ وَمَسَاكِنِكُمْ لَعَلَّكُمْ تُسْأَلُونَ(13)

 Các ngươi đừng bỏ chạy, hãy trở lại với những thứ mà các ngươi đã sống xa hoa và những mái nhà tiện nghi của các ngươi, mong rằng các ngươi sẽ bị tra hỏi.

قَالُوا يَا وَيْلَنَا إِنَّا كُنَّا ظَالِمِينَ(14)

 Họ kêu than: “Ôi thật khốn khổ thay! Chúng tôi thực sự là những kẻ đã làm điều sai quấy (vì đã vô đức tin nơi Allah).”

فَمَا زَالَت تِّلْكَ دَعْوَاهُمْ حَتَّىٰ جَعَلْنَاهُمْ حَصِيدًا خَامِدِينَ(15)

 Tiếng kêu than của họ vẫn dai dẳng mãi cho tới khi TA san bằng họ như một cánh đồng sau mùa gặt hái.

وَمَا خَلَقْنَا السَّمَاءَ وَالْأَرْضَ وَمَا بَيْنَهُمَا لَاعِبِينَ(16)

 TA không tạo hóa các tầng trời và trái đất cũng như vạn vật giữa chúng để chơi vui (một cách vô ích).

لَوْ أَرَدْنَا أَن نَّتَّخِذَ لَهْوًا لَّاتَّخَذْنَاهُ مِن لَّدُنَّا إِن كُنَّا فَاعِلِينَ(17)

 Nếu TA muốn có một thú tiêu khiển và TA thực sự muốn làm điều đó thì chắc chắn TA đã lấy nó từ nơi TA.

بَلْ نَقْذِفُ بِالْحَقِّ عَلَى الْبَاطِلِ فَيَدْمَغُهُ فَإِذَا هُوَ زَاهِقٌ ۚ وَلَكُمُ الْوَيْلُ مِمَّا تَصِفُونَ(18)

 Không! TA lấy Chân Lý chọi sự ngụy tạo, Chân Lý đập mạnh vào sự ngụy tạo làm cho sự ngụy tạo vỡ tan. Thật khốn thay cho các ngươi về những điều mà các ngươi đã mô tả (không đúng về TA)!

وَلَهُ مَن فِي السَّمَاوَاتِ وَالْأَرْضِ ۚ وَمَنْ عِندَهُ لَا يَسْتَكْبِرُونَ عَنْ عِبَادَتِهِ وَلَا يَسْتَحْسِرُونَ(19)

 Bất cứ ai trong các tầng trời và trái đất đều thuộc về Ngài (Allah). Và bất cứ ai ở nơi Ngài (các Thiên Thần) đều không ngạo mạn và không biết mệt mỏi trong việc thờ phượng Ngài.

يُسَبِّحُونَ اللَّيْلَ وَالنَّهَارَ لَا يَفْتُرُونَ(20)

 Họ không ngừng ca tụng và tán dương Ngài cả đêm lẫn ngày (không biết chán nản).

أَمِ اتَّخَذُوا آلِهَةً مِّنَ الْأَرْضِ هُمْ يُنشِرُونَ(21)

 Họ (những kẻ thờ đa thần) đã tôn thờ (ngoài Allah) các thần linh từ trái đất trong khi chúng không có bất cứ quyền năng phục sinh nào.

لَوْ كَانَ فِيهِمَا آلِهَةٌ إِلَّا اللَّهُ لَفَسَدَتَا ۚ فَسُبْحَانَ اللَّهِ رَبِّ الْعَرْشِ عَمَّا يَصِفُونَ(22)

 Nếu trong các tầng trời và trái đất thực sự có những thần linh khác ngoài Allah thì các tầng trời và trái đất chắc chắn sẽ sụp đổ. Cho nên, Allah, Thượng Đế của Chiếc Ngai Vương, tối cao và trong sạch khỏi những điều mà họ đã mô tả (về Ngài).

لَا يُسْأَلُ عَمَّا يَفْعَلُ وَهُمْ يُسْأَلُونَ(23)

 Ngài sẽ không bị ai chất vấn về việc Ngài làm còn họ mới là những kẻ sẽ bị Ngài chất vấn.

أَمِ اتَّخَذُوا مِن دُونِهِ آلِهَةً ۖ قُلْ هَاتُوا بُرْهَانَكُمْ ۖ هَٰذَا ذِكْرُ مَن مَّعِيَ وَذِكْرُ مَن قَبْلِي ۗ بَلْ أَكْثَرُهُمْ لَا يَعْلَمُونَ الْحَقَّ ۖ فَهُم مُّعْرِضُونَ(24)

 Họ đã thờ phượng những thần linh khác ngoài Ngài (Allah). Ngươi (hỡi Thiên Sứ) hãy bảo họ: “Các người hãy đưa ra bằng chứng của các người (về việc các thần linh đó đáng được thờ phượng) xem nào! Còn đây (Kinh Sách được ban xuống cho Ta) là Bức Thông Điệp nhắc nhở cho người nào theo Ta và là điều nhắc nhở cho những người trước Ta.” Không! Đa số bọn họ đều không biết sự thật nên họ đã quay lưng với nó.

وَمَا أَرْسَلْنَا مِن قَبْلِكَ مِن رَّسُولٍ إِلَّا نُوحِي إِلَيْهِ أَنَّهُ لَا إِلَٰهَ إِلَّا أَنَا فَاعْبُدُونِ(25)

 Không một Sứ Giả nào được cử phái đến trước Ngươi mà lại không được TA mặc khải cho y rằng không có Thượng Đế đích thực nào khác ngoài TA nên chỉ hãy thờ phượng riêng một mình TA.

وَقَالُوا اتَّخَذَ الرَّحْمَٰنُ وَلَدًا ۗ سُبْحَانَهُ ۚ بَلْ عِبَادٌ مُّكْرَمُونَ(26)

 (Những kẻ thờ đa thần) nói: “(Các Thiên Thần) là những đứa con gái của Đấng Độ Lượng.” Ngài tối cao và trong sạch khỏi những điều họ nói! Không! Tất cả đều là những bề tôi vinh dự (của Ngài).

لَا يَسْبِقُونَهُ بِالْقَوْلِ وَهُم بِأَمْرِهِ يَعْمَلُونَ(27)

 Họ không dám qua mặt Ngài bất cứ lời nói nào và họ chỉ luôn làm theo mệnh lệnh của Ngài.

يَعْلَمُ مَا بَيْنَ أَيْدِيهِمْ وَمَا خَلْفَهُمْ وَلَا يَشْفَعُونَ إِلَّا لِمَنِ ارْتَضَىٰ وَهُم مِّنْ خَشْيَتِهِ مُشْفِقُونَ(28)

 Ngài biết điều gì trước họ và điều gì sau họ và họ không can thiệp giùm cho ai được ngoại trừ cho người nào mà Ngài ưng thuận. Và họ luôn sợ Ngài.

۞ وَمَن يَقُلْ مِنْهُمْ إِنِّي إِلَٰهٌ مِّن دُونِهِ فَذَٰلِكَ نَجْزِيهِ جَهَنَّمَ ۚ كَذَٰلِكَ نَجْزِي الظَّالِمِينَ(29)

 Trong số họ, ai dám tự xưng “ta là thần linh ngoài Ngài” thì sẽ bị TA trừng phạt bằng Hoả Ngục. TA trừng phạt những kẻ làm điều sai quấy tương tự như thế.

أَوَلَمْ يَرَ الَّذِينَ كَفَرُوا أَنَّ السَّمَاوَاتِ وَالْأَرْضَ كَانَتَا رَتْقًا فَفَتَقْنَاهُمَا ۖ وَجَعَلْنَا مِنَ الْمَاءِ كُلَّ شَيْءٍ حَيٍّ ۖ أَفَلَا يُؤْمِنُونَ(30)

 Lẽ nào những kẻ vô đức tin không nhận thấy rằng các tầng trời và trái đất quyện lại với nhau trước khi TA chẻ chúng ra làm đôi hay sao? Và TA đã tạo mọi sinh vật từ nước, lẽ nào chúng không tin ư?

وَجَعَلْنَا فِي الْأَرْضِ رَوَاسِيَ أَن تَمِيدَ بِهِمْ وَجَعَلْنَا فِيهَا فِجَاجًا سُبُلًا لَّعَلَّهُمْ يَهْتَدُونَ(31)

 TA đã đặt trên trái đất những quả núi kiên cố để giữ trái đất không rung chuyển với họ (cư dân của trái đất) và TA đã làm ra nơi trái đất các con đường, mong rằng họ được hướng dẫn.

وَجَعَلْنَا السَّمَاءَ سَقْفًا مَّحْفُوظًا ۖ وَهُمْ عَنْ آيَاتِهَا مُعْرِضُونَ(32)

 TA đã làm bầu trời như một cái lọng che được canh giữ kỹ càng. Nhưng họ (những kẻ thờ đa thần) ngoảnh mặt làm ngơ trước những dấu hiệu của nó.

وَهُوَ الَّذِي خَلَقَ اللَّيْلَ وَالنَّهَارَ وَالشَّمْسَ وَالْقَمَرَ ۖ كُلٌّ فِي فَلَكٍ يَسْبَحُونَ(33)

 Ngài (Allah) là Đấng đã tạo hóa ban đêm và ban ngày, mặt trời và mặt trăng, mỗi vật đều bơi trong quỹ đạo (được định sẵn).

وَمَا جَعَلْنَا لِبَشَرٍ مِّن قَبْلِكَ الْخُلْدَ ۖ أَفَإِن مِّتَّ فَهُمُ الْخَالِدُونَ(34)

 Trước Ngươi (hỡi Thiên Sứ), TA đã không làm cho một người phàm nào sống bất tử cả. Lẽ nào Ngươi chết đi thì chúng vẫn sống bất tử ư?

كُلُّ نَفْسٍ ذَائِقَةُ الْمَوْتِ ۗ وَنَبْلُوكُم بِالشَّرِّ وَالْخَيْرِ فِتْنَةً ۖ وَإِلَيْنَا تُرْجَعُونَ(35)

 Mỗi một linh hồn đều phải nếm cái chết; TA thử thách các ngươi với điều xấu và điều tốt. Và các ngươi đều sẽ được đưa trở về trình diện TA.

وَإِذَا رَآكَ الَّذِينَ كَفَرُوا إِن يَتَّخِذُونَكَ إِلَّا هُزُوًا أَهَٰذَا الَّذِي يَذْكُرُ آلِهَتَكُمْ وَهُم بِذِكْرِ الرَّحْمَٰنِ هُمْ كَافِرُونَ(36)

 Khi những kẻ vô đức tin thấy Ngươi (hỡi Thiên Sứ Muhammad), họ chỉ muốn chế giễu Ngươi: “Đây có phải là kẻ đã miệt thị những thần linh của các người đúng không?” Và khi nghe nhắc đến Đấng Độ Lượng thì họ trở nên vô đức tin.

خُلِقَ الْإِنسَانُ مِنْ عَجَلٍ ۚ سَأُرِيكُمْ آيَاتِي فَلَا تَسْتَعْجِلُونِ(37)

 Con người được tạo ra vốn nôn nóng. TA sẽ sớm cho các ngươi (hỡi những kẻ thờ đa thần) thấy những bằng chứng (sự trừng phạt) của TA. Cho nên, các ngươi không cần giục nó mau đến làm gì.

وَيَقُولُونَ مَتَىٰ هَٰذَا الْوَعْدُ إِن كُنتُمْ صَادِقِينَ(38)

 Họ (những kẻ vô đức tin) nói với (những người Muslim): “Bao giờ lời hứa này sẽ xảy ra nếu các người nói thật?”

لَوْ يَعْلَمُ الَّذِينَ كَفَرُوا حِينَ لَا يَكُفُّونَ عَن وُجُوهِهِمُ النَّارَ وَلَا عَن ظُهُورِهِمْ وَلَا هُمْ يُنصَرُونَ(39)

 Nếu những kẻ vô đức tin biết được thời khắc mà họ không thể đưa mặt và lưng của họ tránh khỏi Hỏa Ngục cũng như không được ai giúp đỡ (thì chắc chắn họ sẽ không giục sự trừng phạt mau đến).

بَلْ تَأْتِيهِم بَغْتَةً فَتَبْهَتُهُمْ فَلَا يَسْتَطِيعُونَ رَدَّهَا وَلَا هُمْ يُنظَرُونَ(40)

 Chắc chắn (sự trừng phạt) sẽ xảy đến với họ một cách bất ngờ khiến họ bàng hoàng không kịp trở tay và chắc chắn họ không được trì hoãn thêm bất cứ thời khắc nào nữa.

وَلَقَدِ اسْتُهْزِئَ بِرُسُلٍ مِّن قَبْلِكَ فَحَاقَ بِالَّذِينَ سَخِرُوا مِنْهُم مَّا كَانُوا بِهِ يَسْتَهْزِئُونَ(41)

 Quả thật, các Sứ Giả trước Ngươi (hỡi Thiên Sứ) đã từng bị giễu cợt và nhạo báng nhưng (sự trừng phạt) sẽ vây hãm những kẻ chế giễu bởi những điều mà họ đã thường bỡn cợt và trêu đùa.

قُلْ مَن يَكْلَؤُكُم بِاللَّيْلِ وَالنَّهَارِ مِنَ الرَّحْمَٰنِ ۗ بَلْ هُمْ عَن ذِكْرِ رَبِّهِم مُّعْرِضُونَ(42)

 Ngươi hãy bảo họ (hỡi Thiên Sứ Muhammad!): “Ai sẽ canh giữ an toàn cho các người cả đêm lẫn ngày khỏi Đấng Độ Lượng (khi Ngài giáng xuống sự trừng phạt)?” Không, trước Lời Nhắc Nhở của Thượng Đế của họ, họ luôn ngoảnh mặt quay đi.

أَمْ لَهُمْ آلِهَةٌ تَمْنَعُهُم مِّن دُونِنَا ۚ لَا يَسْتَطِيعُونَ نَصْرَ أَنفُسِهِمْ وَلَا هُم مِّنَّا يُصْحَبُونَ(43)

 Hay lẽ nào họ có những thần linh ngoài TA đứng ra che chở họ tránh khỏi (sự trừng phạt của) TA? (Những thần linh đó) sẽ không thể tự cứu lấy mình và cũng không tự bảo vệ bản thân tránh khỏi TA được.

بَلْ مَتَّعْنَا هَٰؤُلَاءِ وَآبَاءَهُمْ حَتَّىٰ طَالَ عَلَيْهِمُ الْعُمُرُ ۗ أَفَلَا يَرَوْنَ أَنَّا نَأْتِي الْأَرْضَ نَنقُصُهَا مِنْ أَطْرَافِهَا ۚ أَفَهُمُ الْغَالِبُونَ(44)

 Không! TA chỉ để mặc những kẻ (vô đức tin) này và cha mẹ của họ hưởng lạc cho đến khi tuổi thọ của họ dài thêm mà thôi. Lẽ nào họ đã không thấy việc TA đã đến tận đất đai của họ và thu hẹp dần ranh giới của nó lại? Lẽ nào họ sẽ chiến thắng?

قُلْ إِنَّمَا أُنذِرُكُم بِالْوَحْيِ ۚ وَلَا يَسْمَعُ الصُّمُّ الدُّعَاءَ إِذَا مَا يُنذَرُونَ(45)

 Ngươi hãy nói (hỡi Thiên Sứ Muhammad!): “Quả thật, ta chỉ cảnh báo các người (hỡi nhân loại) theo Lời Mặc Khải.” Tuy nhiên, kẻ điếc sẽ không nghe được tiếng gọi dù y có được cảnh báo đi chăng nữa.

وَلَئِن مَّسَّتْهُمْ نَفْحَةٌ مِّنْ عَذَابِ رَبِّكَ لَيَقُولُنَّ يَا وَيْلَنَا إِنَّا كُنَّا ظَالِمِينَ(46)

 Nhưng nếu có một làn hơi trừng phạt của Thượng Đế của Ngươi chạm đến họ thì chắc chắn họ sẽ kêu than: “Ôi, thật khổ thân chúng tôi! Chúng tôi thực sự đã là những kẻ sai quấy.”

وَنَضَعُ الْمَوَازِينَ الْقِسْطَ لِيَوْمِ الْقِيَامَةِ فَلَا تُظْلَمُ نَفْسٌ شَيْئًا ۖ وَإِن كَانَ مِثْقَالَ حَبَّةٍ مِّنْ خَرْدَلٍ أَتَيْنَا بِهَا ۗ وَكَفَىٰ بِنَا حَاسِبِينَ(47)

 Rồi đây TA sẽ thiết lập các bàn cân công lý vào Ngày Phán Xét. Lúc đó sẽ không có một linh hồn nào bị đối xử bất công về bất cứ điều gì, cho dù một điều gì đó chỉ bằng sức nặng của một hạt cải thì TA cũng sẽ mang nó ra (để phân xử công minh). Và một mình TA thôi đủ thanh toán (các việc làm của đám bầy tôi của TA).

وَلَقَدْ آتَيْنَا مُوسَىٰ وَهَارُونَ الْفُرْقَانَ وَضِيَاءً وَذِكْرًا لِّلْمُتَّقِينَ(48)

 Quả thật, TA đã ban cho Musa và Harun (Kinh Tawrah) làm tiêu chuẩn phân biệt đúng sai, làm nguồn anh sáng (để hướng dẫn) và làm một thông điệp nhắc nhở cho những người ngoan đạo.

الَّذِينَ يَخْشَوْنَ رَبَّهُم بِالْغَيْبِ وَهُم مِّنَ السَّاعَةِ مُشْفِقُونَ(49)

 (Đó là) những người sợ Thượng Đế của họ dù không nhìn thấy Ngài và khiếp sợ Giờ Tận Thế.

وَهَٰذَا ذِكْرٌ مُّبَارَكٌ أَنزَلْنَاهُ ۚ أَفَأَنتُمْ لَهُ مُنكِرُونَ(50)

 Đây (Qur’an) là nguồn nhắc nhở ân phúc mà TA đã ban xuống. Lẽ nào các ngươi lại phủ nhận Nó?

۞ وَلَقَدْ آتَيْنَا إِبْرَاهِيمَ رُشْدَهُ مِن قَبْلُ وَكُنَّا بِهِ عَالِمِينَ(51)

 Quả thật trước đây TA đã ban cho Ibrahim sự nhận thức đúng sai và TA biết rõ về Y.

إِذْ قَالَ لِأَبِيهِ وَقَوْمِهِ مَا هَٰذِهِ التَّمَاثِيلُ الَّتِي أَنتُمْ لَهَا عَاكِفُونَ(52)

 Khi Y nói với cha và người dân của Y: “Đây, những thứ hình tượng mà các người sùng bái là gì chứ?”

قَالُوا وَجَدْنَا آبَاءَنَا لَهَا عَابِدِينَ(53)

 Họ bảo: “Bọn ta thấy cha mẹ của bọn ta thờ cúng chúng.”

قَالَ لَقَدْ كُنتُمْ أَنتُمْ وَآبَاؤُكُمْ فِي ضَلَالٍ مُّبِينٍ(54)

 (Ibrahim) bảo: “Các người và cha mẹ của các người, tất cả, thật sự đều đã lầm lạc một cách quá rõ ràng.”

قَالُوا أَجِئْتَنَا بِالْحَقِّ أَمْ أَنتَ مِنَ اللَّاعِبِينَ(55)

 Họ nói: “Ngươi nói thật hay đùa giỡn với bọn ta đấy?”

قَالَ بَل رَّبُّكُمْ رَبُّ السَّمَاوَاتِ وَالْأَرْضِ الَّذِي فَطَرَهُنَّ وَأَنَا عَلَىٰ ذَٰلِكُم مِّنَ الشَّاهِدِينَ(56)

 (Ibrahim) nói: “Đúng vậy, Thượng Đế của các người là Thượng Đế của các tầng trời và trái đất, Đấng đã sáng tạo ra chúng (còn những gì các người thờ phượng chẳng có bất cứ quyền năng nào trong sự việc đó cả). Và tôi là một trong những người làm chứng cho điều đó.”

وَتَاللَّهِ لَأَكِيدَنَّ أَصْنَامَكُم بَعْدَ أَن تُوَلُّوا مُدْبِرِينَ(57)

 (Ibrahim) nói (trong lòng): “Thề bởi Allah, chắc chắn tôi sẽ lên kế hoạch đập phá những bức tượng của các người sau khi các người quay đi.”

فَجَعَلَهُمْ جُذَاذًا إِلَّا كَبِيرًا لَّهُمْ لَعَلَّهُمْ إِلَيْهِ يَرْجِعُونَ(58)

 (Đúng như kế hoạch) Ibrahim đã đập phá chúng, chỉ chừa lại bức tượng lớn nhất, (Y làm thế) để mong họ trở lại (hỏi nó về những điều mà Y đã làm).

قَالُوا مَن فَعَلَ هَٰذَا بِآلِهَتِنَا إِنَّهُ لَمِنَ الظَّالِمِينَ(59)

 (Khi họ quay lại, nhìn thấy các bức tượng đã bị đập phá tan tành), họ nói: “Ai đã làm điều này với những thần linh của chúng ta? Hắn thật là một kẻ sai quấy quá mức mà.”

قَالُوا سَمِعْنَا فَتًى يَذْكُرُهُمْ يُقَالُ لَهُ إِبْرَاهِيمُ(60)

 Một số trong bọn họ bảo: “Chúng tôi có nghe một thanh niên tên Ibrahim đã nói chuyện ra vẻ khinh miệt họ (các thần linh của chúng ta).”

قَالُوا فَأْتُوا بِهِ عَلَىٰ أَعْيُنِ النَّاسِ لَعَلَّهُمْ يَشْهَدُونَ(61)

 (Những kẻ cầm quyền trong bọn họ) bảo: “Vậy thì bắt nó đưa ra trước công chúng để người dân chứng kiến (điều tội lỗi mà nó đã làm).”

قَالُوا أَأَنتَ فَعَلْتَ هَٰذَا بِآلِهَتِنَا يَا إِبْرَاهِيمُ(62)

 (Thế rồi họ bắt Ibrahim đến) và bảo: “Này Ibrahim! Có phải mầy đã làm điều này với các thần linh của bọn tao đúng không?”

قَالَ بَلْ فَعَلَهُ كَبِيرُهُمْ هَٰذَا فَاسْأَلُوهُمْ إِن كَانُوا يَنطِقُونَ(63)

 Ibrahim (thản nhiên) đáp: “Không! Bức tượng lớn nhất này của chúng đã làm đấy chứ. Các người hãy hỏi chúng xem nếu chúng nói chuyện được.”

فَرَجَعُوا إِلَىٰ أَنفُسِهِمْ فَقَالُوا إِنَّكُمْ أَنتُمُ الظَّالِمُونَ(64)

 (Lúc đó) họ quay nhìn nhau (trong hổ thẹn vì biết bản thân mình đã thờ phượng những thứ vô dụng) rồi bảo nhau: “Các người mới thực sự là những kẻ sai.”

ثُمَّ نُكِسُوا عَلَىٰ رُءُوسِهِمْ لَقَدْ عَلِمْتَ مَا هَٰؤُلَاءِ يَنطِقُونَ(65)

 Rồi họ gục đầu (nói với Ibrahim trong xấu hổ): “Chắc chắn ngươi đã biết rõ những bức tượng này không nói chuyện được!”

قَالَ أَفَتَعْبُدُونَ مِن دُونِ اللَّهِ مَا لَا يَنفَعُكُمْ شَيْئًا وَلَا يَضُرُّكُمْ(66)

 Ibrahim (nhân cơ hội) liền bảo: “Sao các người lại tôn thờ ngoài Allah những vật chẳng mang lại lợi ích cũng chẳng hãm hại được gì đến các ngươi?”

أُفٍّ لَّكُمْ وَلِمَا تَعْبُدُونَ مِن دُونِ اللَّهِ ۖ أَفَلَا تَعْقِلُونَ(67)

 “Thật đáng xấu hổ thay cho các người và cho những vật mà các người tôn thờ ngoài Allah! Lẽ nào các người không hiểu ra vấn đề?”

قَالُوا حَرِّقُوهُ وَانصُرُوا آلِهَتَكُمْ إِن كُنتُمْ فَاعِلِينَ(68)

 (Không còn lý để tranh luận), họ nói: “Các người hãy bắt nó thiêu sống để giúp những thần linh của các người (đòi lại công bằng) nếu các người thực sự muốn (trừng phạt nó).”

قُلْنَا يَا نَارُ كُونِي بَرْدًا وَسَلَامًا عَلَىٰ إِبْرَاهِيمَ(69)

 (Sau khi họ ném Ibrahim vào trong hố lửa), TA phán: “Hỡi Lửa! Ngươi hãy nguội mát và bằng an cho Ibrahim”

وَأَرَادُوا بِهِ كَيْدًا فَجَعَلْنَاهُمُ الْأَخْسَرِينَ(70)

 Họ muốn mưu hại Ibrahim nhưng TA đã làm cho họ thất bại.

وَنَجَّيْنَاهُ وَلُوطًا إِلَى الْأَرْضِ الَّتِي بَارَكْنَا فِيهَا لِلْعَالَمِينَ(71)

 TA đã giải cứu Y (Ibrahim) và Lut và đưa họ đến một vùng đất mà TA đã ban phúc cho muôn loài.

وَوَهَبْنَا لَهُ إِسْحَاقَ وَيَعْقُوبَ نَافِلَةً ۖ وَكُلًّا جَعَلْنَا صَالِحِينَ(72)

 TA đã ban cho Ibrahim (đứa con trai) Is-haq và (đứa cháu nội) Ya’qub như một món quà; và tất cả họ đều được TA làm thành những người ngoan đạo.

وَجَعَلْنَاهُمْ أَئِمَّةً يَهْدُونَ بِأَمْرِنَا وَأَوْحَيْنَا إِلَيْهِمْ فِعْلَ الْخَيْرَاتِ وَإِقَامَ الصَّلَاةِ وَإِيتَاءَ الزَّكَاةِ ۖ وَكَانُوا لَنَا عَابِدِينَ(73)

 Và TA đã làm cho họ thành các vị Imam (lãnh tụ) hướng dẫn theo Mệnh Lệnh của TA và TA đã mặc khải bảo họ làm việc thiện, dâng lễ nguyện Salah, đóng Zakah và thờ phượng chỉ riêng TA.

وَلُوطًا آتَيْنَاهُ حُكْمًا وَعِلْمًا وَنَجَّيْنَاهُ مِنَ الْقَرْيَةِ الَّتِي كَانَت تَّعْمَلُ الْخَبَائِثَ ۗ إِنَّهُمْ كَانُوا قَوْمَ سَوْءٍ فَاسِقِينَ(74)

 Và Lut, TA đã ban cho Y khả năng phán xét (trong việc phân xử tranh chấp) và kiến thức; và TA đã giải cứu Y ra khỏi thị trấn (Sodom) mà dân cư đã từng làm những điều ô uế. Quả thật, họ là một đám dân xấu xa, bất tuân.

وَأَدْخَلْنَاهُ فِي رَحْمَتِنَا ۖ إِنَّهُ مِنَ الصَّالِحِينَ(75)

 TA đã thương xót Lut (khi cứu Y khỏi sự trừng phạt mà TA đã giáng xuống đám dân của Y), bởi quả thật Y là một người ngoan đạo.

وَنُوحًا إِذْ نَادَىٰ مِن قَبْلُ فَاسْتَجَبْنَا لَهُ فَنَجَّيْنَاهُ وَأَهْلَهُ مِنَ الْكَرْبِ الْعَظِيمِ(76)

 Và Nuh, Y đã cầu nguyện trước đó nên TA đã đáp lời nguyện cầu của Y, TA đã cứu Y và gia đình của Y thoát khỏi cuộc đại nạn.

وَنَصَرْنَاهُ مِنَ الْقَوْمِ الَّذِينَ كَذَّبُوا بِآيَاتِنَا ۚ إِنَّهُمْ كَانُوا قَوْمَ سَوْءٍ فَأَغْرَقْنَاهُمْ أَجْمَعِينَ(77)

 TA đã cứu Y thoát khỏi đám dân đã phủ nhận các bằng chứng của TA. Quả thật họ là một đám dân tội lỗi nên TA đã nhấn chìm họ toàn bộ.

وَدَاوُودَ وَسُلَيْمَانَ إِذْ يَحْكُمَانِ فِي الْحَرْثِ إِذْ نَفَشَتْ فِيهِ غَنَمُ الْقَوْمِ وَكُنَّا لِحُكْمِهِمْ شَاهِدِينَ(78)

 (Hỡi Thiên Sứ Muhammad, Ngươi hãy nhớ lại) khi Dawood và Sulayman xét xử vụ một đám rẫy đã bị đàn cừu của một đám dân đột nhập vào tàn phá trong đêm. TA đã chứng kiến việc xét xử của họ.

فَفَهَّمْنَاهَا سُلَيْمَانَ ۚ وَكُلًّا آتَيْنَا حُكْمًا وَعِلْمًا ۚ وَسَخَّرْنَا مَعَ دَاوُودَ الْجِبَالَ يُسَبِّحْنَ وَالطَّيْرَ ۚ وَكُنَّا فَاعِلِينَ(79)

 TA đã làm cho Sulayman thông hiểu vấn đề triệt để hơn (Dawood) trong lúc cả hai đều được TA ban cho khả năng suy luận khôn ngoan và nguồn kiến thức vững chắc (về các giáo luật). Và TA đã bắt núi non lẫn chim chóc tán dương TA cùng với Dawood. Chính TA đã làm ra (những sự việc đó).

وَعَلَّمْنَاهُ صَنْعَةَ لَبُوسٍ لَّكُمْ لِتُحْصِنَكُم مِّن بَأْسِكُمْ ۖ فَهَلْ أَنتُمْ شَاكِرُونَ(80)

 TA đã dạy Y (Dawood) cách làm áo giáp cho các ngươi để các ngươi tự bảo vệ trong những cuộc giao chiến. Thế các ngươi (hỡi nhân loại) biết ơn TA chăng?

وَلِسُلَيْمَانَ الرِّيحَ عَاصِفَةً تَجْرِي بِأَمْرِهِ إِلَى الْأَرْضِ الَّتِي بَارَكْنَا فِيهَا ۚ وَكُنَّا بِكُلِّ شَيْءٍ عَالِمِينَ(81)

 Đối với Sulayman, TA đã bắt những luồng gió mạnh di chuyển theo mệnh lệnh của Y đến vùng đất mà TA đã ban phúc. Quả thật, TA là Đấng Thông Toàn mọi thứ.

وَمِنَ الشَّيَاطِينِ مَن يَغُوصُونَ لَهُ وَيَعْمَلُونَ عَمَلًا دُونَ ذَٰلِكَ ۖ وَكُنَّا لَهُمْ حَافِظِينَ(82)

 Trong đám Shaytan (thuộc loài Jinn), có những tên (phụ trách công việc) lặn xuống biển cũng như các công việc khác để phục vụ cho Y (Sulayman). Chính TA là Đấng Trông Chừng (những tên Shaytan đó).

۞ وَأَيُّوبَ إِذْ نَادَىٰ رَبَّهُ أَنِّي مَسَّنِيَ الضُّرُّ وَأَنتَ أَرْحَمُ الرَّاحِمِينَ(83)

 Và Ayyub, Y khẩn nguyện Thượng Đế của Y: “Bề tôi đã gặp nạn và Ngài là Đấng Nhân Từ nhất.”

فَاسْتَجَبْنَا لَهُ فَكَشَفْنَا مَا بِهِ مِن ضُرٍّ ۖ وَآتَيْنَاهُ أَهْلَهُ وَمِثْلَهُم مَّعَهُمْ رَحْمَةً مِّنْ عِندِنَا وَذِكْرَىٰ لِلْعَابِدِينَ(84)

 TA đã đáp lời khẩn nguyện của Y, TA đã giải thoát Y khỏi nỗi thống khổ mà Y đã chịu đựng, và TA đã phục hồi cho Y gia đình của Y và đã ban thêm cho Y số lượng tương tự giống như họ bởi sự nhân từ và lòng thương xót từ nơi TA. Và đó là điều nhắc nhở cho những người thờ phượng TA.

وَإِسْمَاعِيلَ وَإِدْرِيسَ وَذَا الْكِفْلِ ۖ كُلٌّ مِّنَ الصَّابِرِينَ(85)

 Và Ismail, Idris và Zdul-Kifli. Tất cả đều là những người kiên nhẫn và chịu đựng.

وَأَدْخَلْنَاهُمْ فِي رَحْمَتِنَا ۖ إِنَّهُم مِّنَ الصَّالِحِينَ(86)

 TA đã thương xót họ bởi họ thực sự là những người ngoan đạo.

وَذَا النُّونِ إِذ ذَّهَبَ مُغَاضِبًا فَظَنَّ أَن لَّن نَّقْدِرَ عَلَيْهِ فَنَادَىٰ فِي الظُّلُمَاتِ أَن لَّا إِلَٰهَ إِلَّا أَنتَ سُبْحَانَكَ إِنِّي كُنتُ مِنَ الظَّالِمِينَ(87)

 Và Zdan-nun (Yunus tức Jonah), khi Y nổi giận bỏ đi và đã nghĩ rằng TA sẽ không làm gì Y. Nhưng Y (đã kịp nhận ra lỗi lầm và liền sám hối ngay khi bị TA nhốt Y vào trong bụng cá voi), từ trong các bóng tối, Y khẩn nguyện: “Không có Thượng Đế đích thực nào khác ngoài Ngài; Quang vinh thay Ngài! Bề tôi thực sự đã sai quấy.”

فَاسْتَجَبْنَا لَهُ وَنَجَّيْنَاهُ مِنَ الْغَمِّ ۚ وَكَذَٰلِكَ نُنجِي الْمُؤْمِنِينَ(88)

 TA đã đáp lại sự cầu xin của Y và cứu Y khỏi nạn kiếp đó; và tương tự, TA sẽ giải cứu những người có đức tin giống như vậy.

وَزَكَرِيَّا إِذْ نَادَىٰ رَبَّهُ رَبِّ لَا تَذَرْنِي فَرْدًا وَأَنتَ خَيْرُ الْوَارِثِينَ(89)

 Và Zakariya, Y khẩn cầu Thượng Đế của Y: “Lạy Thượng Đế của bề tôi! Xin Ngài đừng bỏ mặc bề tôi một mình đơn độc (không con cái nối dõi) và Ngài là Đấng để lại di sản tốt nhất.”

فَاسْتَجَبْنَا لَهُ وَوَهَبْنَا لَهُ يَحْيَىٰ وَأَصْلَحْنَا لَهُ زَوْجَهُ ۚ إِنَّهُمْ كَانُوا يُسَارِعُونَ فِي الْخَيْرَاتِ وَيَدْعُونَنَا رَغَبًا وَرَهَبًا ۖ وَكَانُوا لَنَا خَاشِعِينَ(90)

 TA đã đáp lời khẩn cầu của Y và đã ban cho Y (một đứa con trai) Yahya. TA cũng đã chữa lành bệnh cho người vợ của Y. Quả thật họ là những người thường tranh nhau làm phúc. Họ thường cầu nguyện TA bằng niềm hy vọng và lòng kính sợ. Và họ là những người hạ mình kính cẩn trước TA.

وَالَّتِي أَحْصَنَتْ فَرْجَهَا فَنَفَخْنَا فِيهَا مِن رُّوحِنَا وَجَعَلْنَاهَا وَابْنَهَا آيَةً لِّلْعَالَمِينَ(91)

 Và (Maryam), Nữ là người đã giữ trọn trinh tiết. TA đã cử Ruh của TA (đại Thiên Thần Jibril) đến thổi (linh hồn) vào (bụng) của Nữ (để Nữ mang thai), TA đã làm cho Nữ và đứa con trai của Nữ thành một dấu hiệu lạ cho nhân loại.

إِنَّ هَٰذِهِ أُمَّتُكُمْ أُمَّةً وَاحِدَةً وَأَنَا رَبُّكُمْ فَاعْبُدُونِ(92)

 Thật ra cộng đồng này của các ngươi (hỡi nhân loại) là một cộng đồng thống nhất (đều thờ phượng và thần phục Allah) và TA là Thượng Đế của các ngươi nên các ngươi hãy chỉ thờ phượng riêng TA.

وَتَقَطَّعُوا أَمْرَهُم بَيْنَهُمْ ۖ كُلٌّ إِلَيْنَا رَاجِعُونَ(93)

 Nhưng họ (nhân loại) đã chia rẽ thành các nhóm phái. (Rồi đây) tất cả sẽ trở lại trình diện TA (để TA xét xử).

فَمَن يَعْمَلْ مِنَ الصَّالِحَاتِ وَهُوَ مُؤْمِنٌ فَلَا كُفْرَانَ لِسَعْيِهِ وَإِنَّا لَهُ كَاتِبُونَ(94)

 Do đó, người nào làm điều thiện tốt và có đức tin thì công sức của y sẽ không bị phủ nhận và chính TA sẽ ghi công lao cho y.

وَحَرَامٌ عَلَىٰ قَرْيَةٍ أَهْلَكْنَاهَا أَنَّهُمْ لَا يَرْجِعُونَ(95)

 Và một lệnh cấm đã được ban hành cho (dân của) mỗi thị trấn mà TA đã tiêu diệt rằng họ sẽ không trở lại (thế gian để được quay lại sám hối).

حَتَّىٰ إِذَا فُتِحَتْ يَأْجُوجُ وَمَأْجُوجُ وَهُم مِّن كُلِّ حَدَبٍ يَنسِلُونَ(96)

 Cho tới khi Ya’juj và Ma’juj được thả ra và chúng sẽ ồ ạt tràn xuống từ mỗi ngọn đồi.

وَاقْتَرَبَ الْوَعْدُ الْحَقُّ فَإِذَا هِيَ شَاخِصَةٌ أَبْصَارُ الَّذِينَ كَفَرُوا يَا وَيْلَنَا قَدْ كُنَّا فِي غَفْلَةٍ مِّنْ هَٰذَا بَلْ كُنَّا ظَالِمِينَ(97)

 (Lúc đó) lời hứa thật sự (Giờ Tận Thế) đang đến gần. Rồi khi Nó đến, cặp mắt của những kẻ vô đức tin sẽ mở to trừng trừng (trước cảnh tượng kinh hãi), (họ sẽ than): “Ôi thật khổ thân chúng tôi! Chúng tôi thực sự đã thờ ơ với điều này. Không! Chúng tôi là những kẻ sai quấy.”

إِنَّكُمْ وَمَا تَعْبُدُونَ مِن دُونِ اللَّهِ حَصَبُ جَهَنَّمَ أَنتُمْ لَهَا وَارِدُونَ(98)

 Quả thật, các ngươi (hỡi những kẻ thờ đa thần) và những vật mà các ngươi thờ phượng ngoài Allah sẽ là chất đốt của Hỏa Ngục, nơi mà các ngươi sẽ phải đi vào.

لَوْ كَانَ هَٰؤُلَاءِ آلِهَةً مَّا وَرَدُوهَا ۖ وَكُلٌّ فِيهَا خَالِدُونَ(99)

 Nếu những vật (được thờ phượng) này là những thần linh thực sự thì chúng sẽ không vào đó nhưng tất cả sẽ đi vào ở trong đó mãi mãi.

لَهُمْ فِيهَا زَفِيرٌ وَهُمْ فِيهَا لَا يَسْمَعُونَ(100)

 Trong đó, họ sẽ rên rỉ và sẽ không nghe thấy gì.

إِنَّ الَّذِينَ سَبَقَتْ لَهُم مِّنَّا الْحُسْنَىٰ أُولَٰئِكَ عَنْهَا مُبْعَدُونَ(101)

 (Những kẻ thờ đa thần bảo: quả thật Ysa và các Thiên Thần đều sẽ vào Hỏa Ngục, nên Allah phán): Quả thật, những ai mà TA đã khẳng định họ tốt thì sẽ được đưa ra xa khỏi đó.

لَا يَسْمَعُونَ حَسِيسَهَا ۖ وَهُمْ فِي مَا اشْتَهَتْ أَنفُسُهُمْ خَالِدُونَ(102)

 Họ sẽ không nghe thấy một tiếng xì xào nào của (Hỏa Ngục) và họ sẽ mãi mãi (sống trong Thiên Đàng) hưởng thụ những gì mà bản thân họ đã từng mong ước.

لَا يَحْزُنُهُمُ الْفَزَعُ الْأَكْبَرُ وَتَتَلَقَّاهُمُ الْمَلَائِكَةُ هَٰذَا يَوْمُكُمُ الَّذِي كُنتُمْ تُوعَدُونَ(103)

 Họ sẽ không còn sợ hãi; và các Thiên Thần sẽ nghênh đón họ: “Đây là Ngày mà qúi vị đã được hứa.”

يَوْمَ نَطْوِي السَّمَاءَ كَطَيِّ السِّجِلِّ لِلْكُتُبِ ۚ كَمَا بَدَأْنَا أَوَّلَ خَلْقٍ نُّعِيدُهُ ۚ وَعْدًا عَلَيْنَا ۚ إِنَّا كُنَّا فَاعِلِينَ(104)

 Ngày mà TA sẽ cuốn tròn bầu trời giống như các tờ kinh được cuốn tròn cho những quyển Kinh; TA sẽ tái lập nó lại giống như TA đã khởi tạo nó lần đầu, một Lời Hứa ràng buộc TA phải thực hiện. TA chắc chắn sẽ làm điều đó.

وَلَقَدْ كَتَبْنَا فِي الزَّبُورِ مِن بَعْدِ الذِّكْرِ أَنَّ الْأَرْضَ يَرِثُهَا عِبَادِيَ الصَّالِحُونَ(105)

 Quả thật TA đã ghi trong Kinh Zabur sau quyển Kinh Mẹ (Al-Lawhu Al-Mahfuzh) rằng trái đất sẽ do những bề tôi ngoan đạo của TA thừa hưởng.

إِنَّ فِي هَٰذَا لَبَلَاغًا لِّقَوْمٍ عَابِدِينَ(106)

 Quả thật, trong cái này (Qur’an) là một Thông Điệp gởi đến nhóm người thờ phượng đích thực.

وَمَا أَرْسَلْنَاكَ إِلَّا رَحْمَةً لِّلْعَالَمِينَ(107)

 TA (Allah) cử Ngươi (hỡi Thiên Sứ) đến chỉ để mang lại hồng phúc cho vũ trụ và vạn vật.

قُلْ إِنَّمَا يُوحَىٰ إِلَيَّ أَنَّمَا إِلَٰهُكُمْ إِلَٰهٌ وَاحِدٌ ۖ فَهَلْ أَنتُم مُّسْلِمُونَ(108)

 Ngươi hãy bảo họ: “Quả thật Ta được mặc khải cho biết Thượng Đế của các người chỉ là một Thượng Đế duy nhất. Thế các người sẽ không là những người Muslim (thần phục Ngài) sao?”

فَإِن تَوَلَّوْا فَقُلْ آذَنتُكُمْ عَلَىٰ سَوَاءٍ ۖ وَإِنْ أَدْرِي أَقَرِيبٌ أَم بَعِيدٌ مَّا تُوعَدُونَ(109)

 Nhưng nếu họ ngoảnh mặt bỏ đi thì Ngươi hãy bảo họ: “Ta đã thông báo đều cho các người; và Ta thực sự không biết điều mà các người đã được hứa đang đến gần hay vẫn còn ở xa.”

إِنَّهُ يَعْلَمُ الْجَهْرَ مِنَ الْقَوْلِ وَيَعْلَمُ مَا تَكْتُمُونَ(110)

 “Quả thật, Ngài biết lời lẽ mà các người đã hô hào lớn tiếng và biết điều mà các người giấu kín.”

وَإِنْ أَدْرِي لَعَلَّهُ فِتْنَةٌ لَّكُمْ وَمَتَاعٌ إِلَىٰ حِينٍ(111)

 “Ta thực sự không biết liệu đó là một sự thử thách hay là một sự hưởng thụ ngắn ngủi dành cho các người.”

قَالَ رَبِّ احْكُم بِالْحَقِّ ۗ وَرَبُّنَا الرَّحْمَٰنُ الْمُسْتَعَانُ عَلَىٰ مَا تَصِفُونَ(112)

 Y (Muhammad) cầu nguyện: “Lạy Thượng Đế của bề tôi! Xin Ngài phân xử bằng Chân Lý.” Và (Y nói với những kẻ thờ đa thần): “Thượng Đế của chúng tôi, Đấng Độ Lượng sẽ giúp chúng tôi đối phó với những điều mà các người đã qui cho Ngài.”


Больше сур в вьетнамский:


Аль-Бакара Аль-'Имран Ан-Ниса'
Аль-Маида Юсуф Ибрахим
Аль-Хиджр Аль-Кахф Марьям
Аль-Хадж Аль-Касас Аль-'Анкабут
Ас-Саджда Я-Син Ад-Духан
Аль-Фатх Аль-Худжурат Каф
Ан-Наджм Ар-Рахман Аль-Ваки'а
Аль-Хашр Аль-Мульк Аль-Хакка
Аль-Иншикак Аль-А'ла Аль-Гашия

Скачать суру Al-Anbiya с голосом самых известных рекитаторов Корана:

Сура Al-Anbiya mp3: выберите рекитатора, чтобы прослушать и скачать главу Al-Anbiya полностью в высоком качестве
surah Al-Anbiya Ahmed El Agamy
Ahmed Al Ajmy
surah Al-Anbiya Bandar Balila
Bandar Balila
surah Al-Anbiya Khalid Al Jalil
Khalid Al Jalil
surah Al-Anbiya Saad Al Ghamdi
Saad Al Ghamdi
surah Al-Anbiya Saud Al Shuraim
Saud Al Shuraim
surah Al-Anbiya Abdul Basit Abdul Samad
Abdul Basit
surah Al-Anbiya Abdul Rashid Sufi
Abdul Rashid Sufi
surah Al-Anbiya Abdullah Basfar
Abdullah Basfar
surah Al-Anbiya Abdullah Awwad Al Juhani
Abdullah Al Juhani
surah Al-Anbiya Fares Abbad
Fares Abbad
surah Al-Anbiya Maher Al Muaiqly
Maher Al Muaiqly
surah Al-Anbiya Muhammad Siddiq Al Minshawi
Al Minshawi
surah Al-Anbiya Al Hosary
Al Hosary
surah Al-Anbiya Al-afasi
Mishari Al-afasi
surah Al-Anbiya Yasser Al Dosari
Yasser Al Dosari


Tuesday, December 3, 2024

Помолитесь за нас хорошей молитвой