سورة المؤمنون بالفيتنامية

  1. استمع للسورة
  2. سور أخرى
  3. ترجمة السورة
القرآن الكريم | ترجمة معاني القرآن | اللغة الفيتنامية | سورة المؤمنون | Muminun - عدد آياتها 118 - رقم السورة في المصحف: 23 - معنى السورة بالإنجليزية: The Believers.

قَدْ أَفْلَحَ الْمُؤْمِنُونَ(1)

Quả thật, những người có đức tin đã thành công(1).

الَّذِينَ هُمْ فِي صَلَاتِهِمْ خَاشِعُونَ(2)

Họ là những người kính cẩn trong lễ nguyện Salah của mình.

وَالَّذِينَ هُمْ عَنِ اللَّغْوِ مُعْرِضُونَ(3)

Họ là những người tránh xa điều vô ích và tội lỗi.

وَالَّذِينَ هُمْ لِلزَّكَاةِ فَاعِلُونَ(4)

Họ là những người tích cực xuất Zakah.

وَالَّذِينَ هُمْ لِفُرُوجِهِمْ حَافِظُونَ(5)

Họ là những người biết giữ phần kín của mình (khỏi hành vi tình dục Haram).

إِلَّا عَلَىٰ أَزْوَاجِهِمْ أَوْ مَا مَلَكَتْ أَيْمَانُهُمْ فَإِنَّهُمْ غَيْرُ مَلُومِينَ(6)

Ngoại trừ với vợ hoặc với những nữ nô lệ dưới quyền của họ thì họ không bị khiển trách (khi thỏa mãn nhu cầu tình dục).

فَمَنِ ابْتَغَىٰ وَرَاءَ ذَٰلِكَ فَأُولَٰئِكَ هُمُ الْعَادُونَ(7)

Do đó, những ai muốn thỏa mãn nhục dục ngoài (phạm vi cho phép) đó thì họ là những kẻ vượt mức giới hạn (của Allah).

وَالَّذِينَ هُمْ لِأَمَانَاتِهِمْ وَعَهْدِهِمْ رَاعُونَ(8)

(Những người có đức tin thành công) là những người mà họ thực hiện đúng với sự việc được ủy thác và đúng với giao ước.

وَالَّذِينَ هُمْ عَلَىٰ صَلَوَاتِهِمْ يُحَافِظُونَ(9)

Những người mà họ luôn chu đáo duy trì các lễ nguyện Salah của họ.

أُولَٰئِكَ هُمُ الْوَارِثُونَ(10)

Những người (được mô tả) đó thật sự là những người thừa hưởng.

الَّذِينَ يَرِثُونَ الْفِرْدَوْسَ هُمْ فِيهَا خَالِدُونَ(11)

Họ sẽ thừa hưởng Firdaws (nơi cao nhất của Thiên Đàng), họ sẽ sống trong đó mãi mãi.

وَلَقَدْ خَلَقْنَا الْإِنسَانَ مِن سُلَالَةٍ مِّن طِينٍ(12)

Quả thật, TA (Allah) đã tạo con người (Adam) từ một loại hỗn hợp đất sét.

ثُمَّ جَعَلْنَاهُ نُطْفَةً فِي قَرَارٍ مَّكِينٍ(13)

Sau đó, TA tạo ra con người (con cháu của Adam) từ tinh dịch được lưu trữ tại một nơi an toàn (dạ con của người mẹ).

ثُمَّ خَلَقْنَا النُّطْفَةَ عَلَقَةً فَخَلَقْنَا الْعَلَقَةَ مُضْغَةً فَخَلَقْنَا الْمُضْغَةَ عِظَامًا فَكَسَوْنَا الْعِظَامَ لَحْمًا ثُمَّ أَنشَأْنَاهُ خَلْقًا آخَرَ ۚ فَتَبَارَكَ اللَّهُ أَحْسَنُ الْخَالِقِينَ(14)

Rồi TA tạo tinh dịch thành một hòn máu đặc, kế đến TA tạo hòn máu đặc thành một miếng thịt, rồi từ miếng thịt TA tạo hóa thành xương, sau đó TA lại bao xương bằng thịt rồi làm cho nó thành một tạo vật khác (có linh hồn và được ra đời). Bởi thế, thật phúc thay Allah, Đấng Tạo Hóa Ưu Việt!

ثُمَّ إِنَّكُم بَعْدَ ذَٰلِكَ لَمَيِّتُونَ(15)

Rồi các ngươi sau đó chắc chắn sẽ chết.

ثُمَّ إِنَّكُمْ يَوْمَ الْقِيَامَةِ تُبْعَثُونَ(16)

Rồi các ngươi chắc chắn sẽ được cho sống lại vào Ngày Phán Xét (để chịu sự xét xử về các việc làm của các ngươi).

وَلَقَدْ خَلَقْنَا فَوْقَكُمْ سَبْعَ طَرَائِقَ وَمَا كُنَّا عَنِ الْخَلْقِ غَافِلِينَ(17)

Và quả thật, TA đã tạo bên trên các ngươi bảy quỹ đạo và TA không bao giờ làm ngơ hay quên mất sự tạo hóa (của TA).

وَأَنزَلْنَا مِنَ السَّمَاءِ مَاءً بِقَدَرٍ فَأَسْكَنَّاهُ فِي الْأَرْضِ ۖ وَإِنَّا عَلَىٰ ذَهَابٍ بِهِ لَقَادِرُونَ(18)

TA đã ban mưa từ trên trời xuống theo mức lượng nhất định rồi giữ nó lại trong đất; và chắc chắn TA thừa khả năng tháo bỏ nó đi.

فَأَنشَأْنَا لَكُم بِهِ جَنَّاتٍ مِّن نَّخِيلٍ وَأَعْنَابٍ لَّكُمْ فِيهَا فَوَاكِهُ كَثِيرَةٌ وَمِنْهَا تَأْكُلُونَ(19)

TA đã dùng nó làm ra cho các ngươi những mảnh vườn chà là và các vườn nho, trong đó, các ngươi sẽ có được nhiều loại trái quả để dùng.

وَشَجَرَةً تَخْرُجُ مِن طُورِ سَيْنَاءَ تَنبُتُ بِالدُّهْنِ وَصِبْغٍ لِّلْآكِلِينَ(20)

Và có một loại cây (Ô-liu) mọc tại núi Saina (Sinai) cho ra dầu và nước chấm để ăn.

وَإِنَّ لَكُمْ فِي الْأَنْعَامِ لَعِبْرَةً ۖ نُّسْقِيكُم مِّمَّا فِي بُطُونِهَا وَلَكُمْ فِيهَا مَنَافِعُ كَثِيرَةٌ وَمِنْهَا تَأْكُلُونَ(21)

Quả thật trong loài gia súc có một bài học cho các ngươi. TA ban cho các ngươi một loại thức uống (sữa) từ bụng của chúng cùng với nhiều nguồn lợi khác từ chúng và các ngươi còn có thể ăn thịt của chúng nữa.

وَعَلَيْهَا وَعَلَى الْفُلْكِ تُحْمَلُونَ(22)

Và chúng (các gia súc) được dùng để chuyên chở và cả những con tàu nữa.

وَلَقَدْ أَرْسَلْنَا نُوحًا إِلَىٰ قَوْمِهِ فَقَالَ يَا قَوْمِ اعْبُدُوا اللَّهَ مَا لَكُم مِّنْ إِلَٰهٍ غَيْرُهُ ۖ أَفَلَا تَتَّقُونَ(23)

Quả thật, TA đã phái Nuh đến với người dân của Y, Y bảo họ: “Này hỡi dân ta, các người hãy tôn thờ Allah bởi các người không có Thượng Đế nào khác ngoài Ngài. Lẽ nào các người không sợ Ngài?”

فَقَالَ الْمَلَأُ الَّذِينَ كَفَرُوا مِن قَوْمِهِ مَا هَٰذَا إِلَّا بَشَرٌ مِّثْلُكُمْ يُرِيدُ أَن يَتَفَضَّلَ عَلَيْكُمْ وَلَوْ شَاءَ اللَّهُ لَأَنزَلَ مَلَائِكَةً مَّا سَمِعْنَا بِهَٰذَا فِي آبَائِنَا الْأَوَّلِينَ(24)

Nhưng những kẻ quyền thế vô đức tin trong đám dân của Y bảo: “Người này cũng chỉ là một người phàm giống như các người mà thôi. Thật ra Y chỉ muốn nắm quyền trên các người, bởi nếu Allah thực sự muốn thì Ngài đã phái xuống các Thiên Thần (thay vì là người phàm), chúng ta chưa hề nghe điều này nơi tổ tiên của chúng ta bao giờ cả.”

إِنْ هُوَ إِلَّا رَجُلٌ بِهِ جِنَّةٌ فَتَرَبَّصُوا بِهِ حَتَّىٰ حِينٍ(25)

“Y thực chất chỉ là một gã tâm thần. Cho nên, các người hãy ráng đợi trong một thời gian (để rõ sự tình)”.

قَالَ رَبِّ انصُرْنِي بِمَا كَذَّبُونِ(26)

Nuh cầu nguyện: “Lạy Thượng Đế của bề tôi, xin Ngài giúp đỡ bề tôi (trừng phạt họ) bởi điều mà họ đã phủ nhận bề tôi.”

فَأَوْحَيْنَا إِلَيْهِ أَنِ اصْنَعِ الْفُلْكَ بِأَعْيُنِنَا وَوَحْيِنَا فَإِذَا جَاءَ أَمْرُنَا وَفَارَ التَّنُّورُ ۙ فَاسْلُكْ فِيهَا مِن كُلٍّ زَوْجَيْنِ اثْنَيْنِ وَأَهْلَكَ إِلَّا مَن سَبَقَ عَلَيْهِ الْقَوْلُ مِنْهُمْ ۖ وَلَا تُخَاطِبْنِي فِي الَّذِينَ ظَلَمُوا ۖ إِنَّهُم مُّغْرَقُونَ(27)

Vậy là TA đã mặc khải cho Y: “Ngươi hãy đóng một chiếc tàu dưới mắt quan sát của TA và theo lời mặc khải của TA. Khi nào mệnh lệnh (trừng phạt) của TA đến thì nước sẽ phụt lên từ bếp lò, (khi nhìn thấy hiện tượng đó) Ngươi hãy mang lên tàu mỗi loài động vật một cặp đực cái, cùng với gia đình của Ngươi ngoại trừ những ai mà lời hứa trừng phạt của TA đã được tuyên bố trước cho y; và Ngươi không được phép kêu nài với TA xin giùm cho những ai làm điều sai quấy. Bởi quả thật bọn chúng sẽ phải bị nhấn chìm (trong trận lụt đó).”

فَإِذَا اسْتَوَيْتَ أَنتَ وَمَن مَّعَكَ عَلَى الْفُلْكِ فَقُلِ الْحَمْدُ لِلَّهِ الَّذِي نَجَّانَا مِنَ الْقَوْمِ الظَّالِمِينَ(28)

“Khi nào Ngươi và những ai theo Ngươi lên tàu thì các ngươi hãy nói: Alhamdulillah vì đã giải thoát bầy tôi khỏi đám người làm điều sai quấy.”

وَقُل رَّبِّ أَنزِلْنِي مُنزَلًا مُّبَارَكًا وَأَنتَ خَيْرُ الْمُنزِلِينَ(29)

“Và Ngươi hãy nói: Lạy Thượng Đế của bề tôi, xin Ngài để bề tôi cập bến tại một nơi mà Ngài ban phúc bởi vì Ngài là Đấng giúp đưa lên bờ ưu việt hơn hết.”

إِنَّ فِي ذَٰلِكَ لَآيَاتٍ وَإِن كُنَّا لَمُبْتَلِينَ(30)

Quả thật, nơi sự việc đó là những dấu hiệu (về quyền năng của TA trong việc giúp đỡ những người có đức tin cũng như trong việc trừng phạt những kẻ vô đức tin). Và quả thật, TA luôn thử thách.

ثُمَّ أَنشَأْنَا مِن بَعْدِهِمْ قَرْنًا آخَرِينَ(31)

Rồi TA đã tạo ra một thế hệ khác sau họ.

فَأَرْسَلْنَا فِيهِمْ رَسُولًا مِّنْهُمْ أَنِ اعْبُدُوا اللَّهَ مَا لَكُم مِّنْ إِلَٰهٍ غَيْرُهُ ۖ أَفَلَا تَتَّقُونَ(32)

Rồi TA đã cử đến với họ một Thiên Sứ xuất thân từ họ, Y bảo: “Các người hãy tôn thờ Allah, các người không có Thượng Đế nào khác ngoài Ngài. Lẽ nào các người không sợ Ngài?”

وَقَالَ الْمَلَأُ مِن قَوْمِهِ الَّذِينَ كَفَرُوا وَكَذَّبُوا بِلِقَاءِ الْآخِرَةِ وَأَتْرَفْنَاهُمْ فِي الْحَيَاةِ الدُّنْيَا مَا هَٰذَا إِلَّا بَشَرٌ مِّثْلُكُمْ يَأْكُلُ مِمَّا تَأْكُلُونَ مِنْهُ وَيَشْرَبُ مِمَّا تَشْرَبُونَ(33)

Tuy nhiên, trong đám dân của Y, những kẻ quyền thế vô đức tin (nơi TA) và phủ nhận việc gặp gỡ (TA) ở Đời Sau cùng với những ai đã được TA ban cho một đời sống phú quý ở trần thế này, bảo: “Thật ra người này chỉ là một người phàm giống như các người mà thôi. Y cũng ăn loại thức ăn mà các người ăn và uống loại thức uống mà các người uống.”

وَلَئِنْ أَطَعْتُم بَشَرًا مِّثْلَكُمْ إِنَّكُمْ إِذًا لَّخَاسِرُونَ(34)

“Nếu các người nghe theo một kẻ phàm tục giống như các người thì các người đúng là những kẻ thất bại.”

أَيَعِدُكُمْ أَنَّكُمْ إِذَا مِتُّمْ وَكُنتُمْ تُرَابًا وَعِظَامًا أَنَّكُم مُّخْرَجُونَ(35)

“Có phải Y đã hứa với các người rằng khi các người chết đi biến thành cát bụi và xương khô thì sau đó các người sẽ được dựng sống trở lại?”

۞ هَيْهَاتَ هَيْهَاتَ لِمَا تُوعَدُونَ(36)

“Thật xa vời, thật viển vông cho điều mà các người đã được hứa!”

إِنْ هِيَ إِلَّا حَيَاتُنَا الدُّنْيَا نَمُوتُ وَنَحْيَا وَمَا نَحْنُ بِمَبْعُوثِينَ(37)

“Quả thật, chỉ có một cuộc sống thế gian này mà thôi. Chúng ta sẽ sống rồi chết, chúng ta sẽ không được phục sinh trở lại bao giờ.”

إِنْ هُوَ إِلَّا رَجُلٌ افْتَرَىٰ عَلَى اللَّهِ كَذِبًا وَمَا نَحْنُ لَهُ بِمُؤْمِنِينَ(38)

“Y thật ra chỉ là một người phàm tục. Y chỉ đặt điều rồi đổ thừa cho Allah và chúng ta sẽ không tin nơi Y.”

قَالَ رَبِّ انصُرْنِي بِمَا كَذَّبُونِ(39)

(Vị Thiên Sứ đó của TA) cầu nguyện: “Lạy Thượng Đế của bề tôi, xin Ngài giúp đỡ bề tôi (trừng phạt họ) bởi vì họ đã phủ nhận bề tôi.”

قَالَ عَمَّا قَلِيلٍ لَّيُصْبِحُنَّ نَادِمِينَ(40)

(Allah) phán: “Chỉ trong một thời gian ngắn nữa thôi, chắc chắn bọn chúng sẽ ân hận.”

فَأَخَذَتْهُمُ الصَّيْحَةُ بِالْحَقِّ فَجَعَلْنَاهُمْ غُثَاءً ۚ فَبُعْدًا لِّلْقَوْمِ الظَّالِمِينَ(41)

Rồi một âm thanh kinh hoàng chụp bắt chúng đúng với sự thật. Và TA đã làm cho chúng thành một đống bọt biển. Thật đáng đời những kẻ làm điều sai quấy!

ثُمَّ أَنشَأْنَا مِن بَعْدِهِمْ قُرُونًا آخَرِينَ(42)

Rồi TA đã tạo ra một thế hệ khác sau họ.

مَا تَسْبِقُ مِنْ أُمَّةٍ أَجَلَهَا وَمَا يَسْتَأْخِرُونَ(43)

Không một cộng đồng nào có thể hối thúc thời hạn của mình chấm dứt sớm hơn và cũng không thể yêu cầu nó kết thúc trễ hơn.

ثُمَّ أَرْسَلْنَا رُسُلَنَا تَتْرَىٰ ۖ كُلَّ مَا جَاءَ أُمَّةً رَّسُولُهَا كَذَّبُوهُ ۚ فَأَتْبَعْنَا بَعْضَهُم بَعْضًا وَجَعَلْنَاهُمْ أَحَادِيثَ ۚ فَبُعْدًا لِّقَوْمٍ لَّا يُؤْمِنُونَ(44)

TA đã lần lượt phái các Thiên Sứ của TA đến, cứ mỗi lần Thiên Sứ đến thì họ phủ nhận Y. Thế là TA đã bắt phạt hết cộng đồng này đến cộng đồng kia; và TA đã làm cho họ trở thành những câu chuyện răn đời, thật đáng đời cho đám người vô đức tin.

ثُمَّ أَرْسَلْنَا مُوسَىٰ وَأَخَاهُ هَارُونَ بِآيَاتِنَا وَسُلْطَانٍ مُّبِينٍ(45)

TA đã cử Musa và người anh em của Y, Harun, mang theo các Phép Lạ của TA cùng với một thẩm quyền rõ rệt.

إِلَىٰ فِرْعَوْنَ وَمَلَئِهِ فَاسْتَكْبَرُوا وَكَانُوا قَوْمًا عَالِينَ(46)

Đi gặp Pha-ra-ông và các quần thần của hắn. Nhưng chúng đã ngạo mạn và chúng thực sự là một đám tự cao ngông cuồng.

فَقَالُوا أَنُؤْمِنُ لِبَشَرَيْنِ مِثْلِنَا وَقَوْمُهُمَا لَنَا عَابِدُونَ(47)

(Pha-ra-ông và các quần thần của hắn) bảo nhau: “Chẳng lẽ chúng ta phải tin vào hai tên người phàm giống như chúng ta trong khi đám dân của hai tên đó lại là những nô lệ của chúng ta ư?”

فَكَذَّبُوهُمَا فَكَانُوا مِنَ الْمُهْلَكِينَ(48)

Thế nên chúng đã phủ nhận hai người họ và đã trở thành những kẻ bị tiêu diệt.

وَلَقَدْ آتَيْنَا مُوسَى الْكِتَابَ لَعَلَّهُمْ يَهْتَدُونَ(49)

TA quả thật đã ban cho Musa Kinh Sách (Cựu Ước), mong rằng họ được hướng dẫn đúng đường.

وَجَعَلْنَا ابْنَ مَرْيَمَ وَأُمَّهُ آيَةً وَآوَيْنَاهُمَا إِلَىٰ رَبْوَةٍ ذَاتِ قَرَارٍ وَمَعِينٍ(50)

TA đã làm cho con trai của Maryam (Ysa) và mẹ của Y thành một hiện tượng lạ và TA đã để hai mẹ con họ định cư ở vùng đất cao, một chỗ nghỉ an lành với dòng suối chảy.

يَا أَيُّهَا الرُّسُلُ كُلُوا مِنَ الطَّيِّبَاتِ وَاعْمَلُوا صَالِحًا ۖ إِنِّي بِمَا تَعْمَلُونَ عَلِيمٌ(51)

Hỡi các Thiên Sứ, các ngươi hãy dùng thức ăn tốt và sạch, và các ngươi hãy làm việc thiện, bởi TA thực sự biết rõ mọi điều các ngươi làm.

وَإِنَّ هَٰذِهِ أُمَّتُكُمْ أُمَّةً وَاحِدَةً وَأَنَا رَبُّكُمْ فَاتَّقُونِ(52)

Thật ra cộng đồng này của các ngươi là một cộng đồng duy nhất và TA chính là Thượng Đế của các ngươi, cho nên, các ngươi hãy sợ TA (mà ngoan đạo).

فَتَقَطَّعُوا أَمْرَهُم بَيْنَهُمْ زُبُرًا ۖ كُلُّ حِزْبٍ بِمَا لَدَيْهِمْ فَرِحُونَ(53)

Thế nhưng họ đã chia rẽ thành những giáo phái riêng biệt và mỗi giáo phái hân hoan với điều mình đang có.

فَذَرْهُمْ فِي غَمْرَتِهِمْ حَتَّىٰ حِينٍ(54)

Thế nên, Ngươi (hỡi Thiên Sứ Muhammad) hãy cứ để mặc họ đắm mình trong sự ngu muội đến lúc (sự trừng phạt được giáng xuống).

أَيَحْسَبُونَ أَنَّمَا نُمِدُّهُم بِهِ مِن مَّالٍ وَبَنِينَ(55)

Có phải họ tưởng rằng việc TA gia tăng của cải và con cái thêm cho họ,

نُسَارِعُ لَهُمْ فِي الْخَيْرَاتِ ۚ بَل لَّا يَشْعُرُونَ(56)

Là TA thúc đẩy điều tốt đến cho họ ư? Không, họ không nhận thấy (sự thật của vấn đề).

إِنَّ الَّذِينَ هُم مِّنْ خَشْيَةِ رَبِّهِم مُّشْفِقُونَ(57)

Quả thật, những người sợ Thượng Đế của họ,

وَالَّذِينَ هُم بِآيَاتِ رَبِّهِمْ يُؤْمِنُونَ(58)

Những người có đức tin nơi các lời mặc khải của Thượng Đế của họ,

وَالَّذِينَ هُم بِرَبِّهِمْ لَا يُشْرِكُونَ(59)

Những người không tổ hợp những đối tác ngang vai cùng với Thượng Đế của họ,

وَالَّذِينَ يُؤْتُونَ مَا آتَوا وَّقُلُوبُهُمْ وَجِلَةٌ أَنَّهُمْ إِلَىٰ رَبِّهِمْ رَاجِعُونَ(60)

Những người cho đi những gì đã cho và tấm lòng của họ luôn lo sợ việc họ sẽ trở về trình diện Thượng Đế của họ.

أُولَٰئِكَ يُسَارِعُونَ فِي الْخَيْرَاتِ وَهُمْ لَهَا سَابِقُونَ(61)

Những người đó mới thực sự là những người thi đua nhau làm việc thiện tốt, mới thực sự là những người tiên phong.

وَلَا نُكَلِّفُ نَفْسًا إِلَّا وُسْعَهَا ۖ وَلَدَيْنَا كِتَابٌ يَنطِقُ بِالْحَقِّ ۚ وَهُمْ لَا يُظْلَمُونَ(62)

TA không bắt bất cứ linh hồn nào gánh vác quá khả năng của nó và TA đang giữ một tập hồ sơ ghi chép sự thật và họ sẽ không bị đối xử bất công.

بَلْ قُلُوبُهُمْ فِي غَمْرَةٍ مِّنْ هَٰذَا وَلَهُمْ أَعْمَالٌ مِّن دُونِ ذَٰلِكَ هُمْ لَهَا عَامِلُونَ(63)

Không, trái tim của họ đang thờ ơ với Qur’an này và họ còn những tội lỗi khác đang làm.

حَتَّىٰ إِذَا أَخَذْنَا مُتْرَفِيهِم بِالْعَذَابِ إِذَا هُمْ يَجْأَرُونَ(64)

Cho tới khi TA trừng phạt những kẻ sống xa hoa trong bọn họ thì họ mới van xin.

لَا تَجْأَرُوا الْيَوْمَ ۖ إِنَّكُم مِّنَّا لَا تُنصَرُونَ(65)

Ngày hôm nay, các ngươi chớ khóc lóc van xin. Chắc chắn các ngươi sẽ không được TA cứu giúp.

قَدْ كَانَتْ آيَاتِي تُتْلَىٰ عَلَيْكُمْ فَكُنتُمْ عَلَىٰ أَعْقَابِكُمْ تَنكِصُونَ(66)

Quả thật, những lời mặc khải của TA đã được xướng đọc cho các ngươi nhưng các ngươi đã ngoảnh mặt bỏ đi.

مُسْتَكْبِرِينَ بِهِ سَامِرًا تَهْجُرُونَ(67)

Các ngươi ngạo mạn xem thường Nó (Qur’an), các ngươi thức thâu đêm tán gẫu chuyện không đâu.

أَفَلَمْ يَدَّبَّرُوا الْقَوْلَ أَمْ جَاءَهُم مَّا لَمْ يَأْتِ آبَاءَهُمُ الْأَوَّلِينَ(68)

Tại sao họ không chịu suy ngẫm về lời phán hay phải chăng điều này chỉ đến với họ mà không đến với tổ tiên của họ trước đây?

أَمْ لَمْ يَعْرِفُوا رَسُولَهُمْ فَهُمْ لَهُ مُنكِرُونَ(69)

Hay phải chăng họ không nhận biết vị Thiên Sứ của họ nên mới từ chối Y?

أَمْ يَقُولُونَ بِهِ جِنَّةٌ ۚ بَلْ جَاءَهُم بِالْحَقِّ وَأَكْثَرُهُمْ لِلْحَقِّ كَارِهُونَ(70)

Hay phải chăng họ nói Y bị điên? Không, Y (Thiên Sứ Muhammad) đã mang Chân Lý đến cho họ nhưng đa số bọn họ ghét sự thật.

وَلَوِ اتَّبَعَ الْحَقُّ أَهْوَاءَهُمْ لَفَسَدَتِ السَّمَاوَاتُ وَالْأَرْضُ وَمَن فِيهِنَّ ۚ بَلْ أَتَيْنَاهُم بِذِكْرِهِمْ فَهُمْ عَن ذِكْرِهِم مُّعْرِضُونَ(71)

Nếu Chân Lý hùa theo những điều ham muốn của họ thì các tầng trời, trái đất và vạn vật giữa trời đất chắc chắn sẽ sụp đổ. Không, TA đã ban cho họ Lời Nhắc Nhở nhưng họ quay lưng với Lời Nhắc Nhở dành cho họ.

أَمْ تَسْأَلُهُمْ خَرْجًا فَخَرَاجُ رَبِّكَ خَيْرٌ ۖ وَهُوَ خَيْرُ الرَّازِقِينَ(72)

Hoặc lẽ nào Ngươi (Thiên Sứ Muhammad) đã đòi họ tiền công? (Chắc chắn điều đó không xảy ra) bởi phần trả công của Thượng Đế của Ngươi tốt hơn vì Ngài là Đấng Ban Phát tốt nhất.

وَإِنَّكَ لَتَدْعُوهُمْ إِلَىٰ صِرَاطٍ مُّسْتَقِيمٍ(73)

Quả thật, Ngươi đang kêu gọi họ đến với Con Đường Ngay Thẳng (con đường được hướng dẫn: Islam).

وَإِنَّ الَّذِينَ لَا يُؤْمِنُونَ بِالْآخِرَةِ عَنِ الصِّرَاطِ لَنَاكِبُونَ(74)

Và quả thật, những ai không có đức tin nơi Đời Sau chắc chắn sẽ lạc xa con đường (Islam).

۞ وَلَوْ رَحِمْنَاهُمْ وَكَشَفْنَا مَا بِهِم مِّن ضُرٍّ لَّلَجُّوا فِي طُغْيَانِهِمْ يَعْمَهُونَ(75)

Dẫu TA có thương xót họ và cứu họ thoát khỏi hoạn nạn thì chắc chắn họ cũng lại tiếp tục vượt giới hạn và lang thang lây lất.

وَلَقَدْ أَخَذْنَاهُم بِالْعَذَابِ فَمَا اسْتَكَانُوا لِرَبِّهِمْ وَمَا يَتَضَرَّعُونَ(76)

Quả thật, TA đã trừng phạt họ nhưng họ vẫn không chịu hạ mình trước Thượng Đế của họ và cũng không chịu van xin khẩn cầu.

حَتَّىٰ إِذَا فَتَحْنَا عَلَيْهِم بَابًا ذَا عَذَابٍ شَدِيدٍ إِذَا هُمْ فِيهِ مُبْلِسُونَ(77)

Mãi đến khi TA mở cánh cửa trừng phạt khủng khiếp dành cho họ (Hỏa Ngục ở Đời Sau) thì họ mới đâm ra tuyệt vọng trong đó.

وَهُوَ الَّذِي أَنشَأَ لَكُمُ السَّمْعَ وَالْأَبْصَارَ وَالْأَفْئِدَةَ ۚ قَلِيلًا مَّا تَشْكُرُونَ(78)

Ngài (Allah) là Đấng đã tạo cho các ngươi thính giác, thị giác và trái tim nhưng các ngươi lại rất ít tri ân Ngài.

وَهُوَ الَّذِي ذَرَأَكُمْ فِي الْأَرْضِ وَإِلَيْهِ تُحْشَرُونَ(79)

Ngài là Đấng đã rải các ngươi đông đảo trên khắp trái đất (với sự khác biệt tiếng nói, màu da, diện mạo) và (rồi đây) các ngươi sẽ được triệu tập đưa về trình diện Ngài trở lại.

وَهُوَ الَّذِي يُحْيِي وَيُمِيتُ وَلَهُ اخْتِلَافُ اللَّيْلِ وَالنَّهَارِ ۚ أَفَلَا تَعْقِلُونَ(80)

Ngài là Đấng làm cho sống và làm cho chết, Ngài làm cho ban đêm và ban ngày luân chuyển tiếp nối nhau. Vậy chẳng lẽ các ngươi không suy ngẫm để hiểu ư?

بَلْ قَالُوا مِثْلَ مَا قَالَ الْأَوَّلُونَ(81)

Không, (những kẻ phủ nhận sự Phục Sinh) nói những điều giống như những kẻ (phủ nhận sự Phục Sinh) của thời trước đã nói.

قَالُوا أَإِذَا مِتْنَا وَكُنَّا تُرَابًا وَعِظَامًا أَإِنَّا لَمَبْعُوثُونَ(82)

Họ nói: “Lẽ nào chúng tôi được dựng sống lại sau khi chúng tôi đã chết đi và đã trở thành cát bụi và xương khô?”

لَقَدْ وُعِدْنَا نَحْنُ وَآبَاؤُنَا هَٰذَا مِن قَبْلُ إِنْ هَٰذَا إِلَّا أَسَاطِيرُ الْأَوَّلِينَ(83)

“Quả thật, chúng tôi cũng như ông bà cha mẹ của chúng tôi trước đây đều được hứa điều này, nhưng đó chỉ là truyện cổ tích của người xưa (không hề có thật).”

قُل لِّمَنِ الْأَرْضُ وَمَن فِيهَا إِن كُنتُمْ تَعْلَمُونَ(84)

(Hỡi Thiên Sứ Muhammad!) Ngươi hãy nói với họ: “Trái đất và những ai sống trong đó thuộc về ai nếu các người là những người thực sự biết?”

سَيَقُولُونَ لِلَّهِ ۚ قُلْ أَفَلَا تَذَكَّرُونَ(85)

Họ sẽ nói: “Của Allah” Ngươi hãy bảo họ: “Vậy các người không lưu tâm ư?”

قُلْ مَن رَّبُّ السَّمَاوَاتِ السَّبْعِ وَرَبُّ الْعَرْشِ الْعَظِيمِ(86)

Ngươi hãy hỏi họ: “Ai là Đấng Chúa Tể của bảy tầng trời và chiếc Ngai Vương Vĩ Đại?”

سَيَقُولُونَ لِلَّهِ ۚ قُلْ أَفَلَا تَتَّقُونَ(87)

Họ sẽ trả lời: “Allah” Ngươi hãy bảo họ: “Vậy sao các ngươi không sợ Ngài?”

قُلْ مَن بِيَدِهِ مَلَكُوتُ كُلِّ شَيْءٍ وَهُوَ يُجِيرُ وَلَا يُجَارُ عَلَيْهِ إِن كُنتُمْ تَعْلَمُونَ(88)

Ngươi hãy hỏi họ: “Ai nắm quyền chi phối vạn vật, toàn quyền thống trị mà không một sức mạnh nào cưỡng lại được nếu các người thực sự biết?”

سَيَقُولُونَ لِلَّهِ ۚ قُلْ فَأَنَّىٰ تُسْحَرُونَ(89)

Họ sẽ trả lời: “Allah” Ngươi hãy bảo họ: “Vậy sao các người mê muội (trong sự thờ phượng các thần linh hư cấu ngoài Ngài?)”.

بَلْ أَتَيْنَاهُم بِالْحَقِّ وَإِنَّهُمْ لَكَاذِبُونَ(90)

Không, TA (Allah) đã mang đến cho họ sự thật nhưng chính họ là những kẻ nói dối.

مَا اتَّخَذَ اللَّهُ مِن وَلَدٍ وَمَا كَانَ مَعَهُ مِنْ إِلَٰهٍ ۚ إِذًا لَّذَهَبَ كُلُّ إِلَٰهٍ بِمَا خَلَقَ وَلَعَلَا بَعْضُهُمْ عَلَىٰ بَعْضٍ ۚ سُبْحَانَ اللَّهِ عَمَّا يَصِفُونَ(91)

Allah không nhận bất cứ ai làm con trai (của Ngài) và Ngài cũng không hề có bất cứ thần linh nào bên cạnh Ngài (để chia sẻ cùng Ngài) bởi vì (nếu có nhiều thần linh cùng với Ngài) thì chắc chắn mỗi vị sẽ lấy đi cái mà mỗi vị đã tạo ra và chắc chắn vị này sẽ muốn cai trị vị kia (gây ra sự náo loạn). Quả thật, Allah quang vinh và tối cao hơn những gì họ đã qui cho Ngài.

عَالِمِ الْغَيْبِ وَالشَّهَادَةِ فَتَعَالَىٰ عَمَّا يُشْرِكُونَ(92)

(Ngài là) Đấng biết điều vô hình và hữu hình. Cho nên, Ngài tối cao vượt xa hẳn những (thần linh) mà họ đã tổ hợp (cùng với Ngài).

قُل رَّبِّ إِمَّا تُرِيَنِّي مَا يُوعَدُونَ(93)

(Hỡi Thiên Sứ Muhammad!) Ngươi hãy nói (trong lời cầu nguyện): “Lạy Thượng Đế của bề tôi, nếu Ngài cho bề tôi nhìn thấy điều (hình phạt) được hứa với họ,”

رَبِّ فَلَا تَجْعَلْنِي فِي الْقَوْمِ الظَّالِمِينَ(94)

“Thì xin Ngài, lạy Thượng Đế của bề tôi, đừng để bề tôi ở cùng với đám người làm điều sai quấy kia.”

وَإِنَّا عَلَىٰ أَن نُّرِيَكَ مَا نَعِدُهُمْ لَقَادِرُونَ(95)

Quả thật, TA (Allah) thừa sức cho Ngươi (Thiên Sứ Muhammad) nhìn thấy điều (hình phạt) mà TA cảnh báo họ.

ادْفَعْ بِالَّتِي هِيَ أَحْسَنُ السَّيِّئَةَ ۚ نَحْنُ أَعْلَمُ بِمَا يَصِفُونَ(96)

Ngươi hãy đáp lại điều xấu bằng điều tốt hơn. TA biết rõ những gì họ thốt ra.

وَقُل رَّبِّ أَعُوذُ بِكَ مِنْ هَمَزَاتِ الشَّيَاطِينِ(97)

Và Ngươi hãy (cầu nguyện) nói: “Lạy Thượng Đế của bề tôi, xin Ngài che chở bề tôi tránh xa khỏi những xúi bẩy của những tên Shaytan.”

وَأَعُوذُ بِكَ رَبِّ أَن يَحْضُرُونِ(98)

“Lạy Thượng Đế của bề tôi, xin Ngài che chở bề tôi (bằng việc) ngăn chúng không đến gần bề tôi.”

حَتَّىٰ إِذَا جَاءَ أَحَدَهُمُ الْمَوْتُ قَالَ رَبِّ ارْجِعُونِ(99)

Rồi đến khi một trong số họ đối diện với cái chết, y mới van nài kêu xin: “Lạy Thượng Đế của bề tôi, xin Ngài hãy cho bề tôi được quay lại (trần gian)!”

لَعَلِّي أَعْمَلُ صَالِحًا فِيمَا تَرَكْتُ ۚ كَلَّا ۚ إِنَّهَا كَلِمَةٌ هُوَ قَائِلُهَا ۖ وَمِن وَرَائِهِم بَرْزَخٌ إِلَىٰ يَوْمِ يُبْعَثُونَ(100)

“Chắc chắn bề tôi sẽ hành đạo và làm điều thiện tốt mà bề tôi đã bỏ qua.” Không. Quả thật đó chỉ là lời nói thốt ra trên môi mà thôi. Thế rồi trước mặt họ là cõi Barzakh (ngăn cách họ với trần thế) cho đến Ngày họ được Phục Sinh.

فَإِذَا نُفِخَ فِي الصُّورِ فَلَا أَنسَابَ بَيْنَهُمْ يَوْمَئِذٍ وَلَا يَتَسَاءَلُونَ(101)

Rồi khi tiếng còi (Tận Thế) được thổi, đó là Ngày sẽ chẳng còn tình máu mủ ruột thịt giữa bọn họ nữa và cũng sẽ không có ai hỏi han đến ai.

فَمَن ثَقُلَتْ مَوَازِينُهُ فَأُولَٰئِكَ هُمُ الْمُفْلِحُونَ(102)

(Trong Ngày hôm đó), những ai mà bàn cân của họ có trọng lượng nặng (bởi những việc hành đạo và những việc làm thiện tốt) thì họ sẽ là những người thành công.

وَمَنْ خَفَّتْ مَوَازِينُهُ فَأُولَٰئِكَ الَّذِينَ خَسِرُوا أَنفُسَهُمْ فِي جَهَنَّمَ خَالِدُونَ(103)

Còn những ai mà bàn cân của họ có trọng lượng nhẹ (bởi những việc hành đạo và những việc làm thiện tốt) thì họ sẽ là những kẻ đã làm bản thân mình thất bại. Họ sẽ phải ở trong Hỏa Ngục mãi mãi.

تَلْفَحُ وُجُوهَهُمُ النَّارُ وَهُمْ فِيهَا كَالِحُونَ(104)

Lửa sẽ thiêu đốt gương mặt của họ và họ nhe răng trong đó.

أَلَمْ تَكُنْ آيَاتِي تُتْلَىٰ عَلَيْكُمْ فَكُنتُم بِهَا تُكَذِّبُونَ(105)

(Allah phán với họ): “Chẳng phải những lời mặc khải của TA đã được đọc cho các ngươi nghe nhưng các ngươi đã phủ nhận đó sao?”

قَالُوا رَبَّنَا غَلَبَتْ عَلَيْنَا شِقْوَتُنَا وَكُنَّا قَوْمًا ضَالِّينَ(106)

Họ nài nỉ van cầu: “Lạy Thượng Đế của bầy tôi, bầy tôi đã chịu cùng cực và khổ ải, quả thật bầy tôi thực sự là những kẻ lầm lạc.”

رَبَّنَا أَخْرِجْنَا مِنْهَا فَإِنْ عُدْنَا فَإِنَّا ظَالِمُونَ(107)

“Lạy Thượng Đế của bầy tôi, xin Ngài cho bầy tôi ra khỏi Hỏa Ngục, nếu bầy tôi tái phạm thì đích thực bầy tôi là những kẻ làm điều sai quấy.”

قَالَ اخْسَئُوا فِيهَا وَلَا تُكَلِّمُونِ(108)

(Lúc đó, Allah) phán: “Các ngươi hãy cút vào trong đó (Hỏa Ngục) và chớ thưa bẩm gì với TA nữa!”

إِنَّهُ كَانَ فَرِيقٌ مِّنْ عِبَادِي يَقُولُونَ رَبَّنَا آمَنَّا فَاغْفِرْ لَنَا وَارْحَمْنَا وَأَنتَ خَيْرُ الرَّاحِمِينَ(109)

Quả thật trong số đám bầy tôi của TA, có một nhóm người thường nói: “Lạy Thượng Đế của bầy tôi, bầy tôi đã tin, xin Ngài tha thứ cho bầy tôi và xin Ngài thương xót bầy tôi bởi Ngài là Đấng thương xót tốt nhất.”

فَاتَّخَذْتُمُوهُمْ سِخْرِيًّا حَتَّىٰ أَنسَوْكُمْ ذِكْرِي وَكُنتُم مِّنْهُمْ تَضْحَكُونَ(110)

Nhưng các ngươi (những kẻ vô đức tin) đã nhạo báng họ đến nỗi (việc nhạo báng đó) làm cho các ngươi quên đi Thông Điệp Nhắc Nhở của TA và các ngươi cứ hả hê cười nhạo báng họ.

إِنِّي جَزَيْتُهُمُ الْيَوْمَ بِمَا صَبَرُوا أَنَّهُمْ هُمُ الْفَائِزُونَ(111)

Ngày hôm nay, TA ban thưởng cho họ bởi những gì họ đã kiên nhẫn chịu đựng. Họ thực sự là những người chiến thắng.

قَالَ كَمْ لَبِثْتُمْ فِي الْأَرْضِ عَدَدَ سِنِينَ(112)

(Allah phán bảo những kẻ vô đức tin và những kẻ tội lỗi): “Các ngươi đã ở lại trên trái đất bao năm?”

قَالُوا لَبِثْنَا يَوْمًا أَوْ بَعْضَ يَوْمٍ فَاسْأَلِ الْعَادِّينَ(113)

Họ đáp: “Bầy tôi đã ở lại đó một ngày hay nửa ngày gì đấy, xin hỏi những vị ghi chép.”

قَالَ إِن لَّبِثْتُمْ إِلَّا قَلِيلًا ۖ لَّوْ أَنَّكُمْ كُنتُمْ تَعْلَمُونَ(114)

(Allah phán): “Các ngươi đã ở lại đó chỉ trong chốc lát mà thôi, phải chi các ngươi biết điều đó.”

أَفَحَسِبْتُمْ أَنَّمَا خَلَقْنَاكُمْ عَبَثًا وَأَنَّكُمْ إِلَيْنَا لَا تُرْجَعُونَ(115)

“Có phải các ngươi nghĩ rằng TA đã tạo hóa các ngươi là để vui chơi vô ích và rằng các ngươi sẽ không quay trở lại trình diện TA chăng?”

فَتَعَالَى اللَّهُ الْمَلِكُ الْحَقُّ ۖ لَا إِلَٰهَ إِلَّا هُوَ رَبُّ الْعَرْشِ الْكَرِيمِ(116)

Allah tối cao, Ngài là Đức Vua đích thực, không có Thượng Đế nào khác ngoài Ngài, Ngài là Thượng Đế của chiếc Ngai Vương Vinh Dự.

وَمَن يَدْعُ مَعَ اللَّهِ إِلَٰهًا آخَرَ لَا بُرْهَانَ لَهُ بِهِ فَإِنَّمَا حِسَابُهُ عِندَ رَبِّهِ ۚ إِنَّهُ لَا يُفْلِحُ الْكَافِرُونَ(117)

Ai cầu xin một thần linh nào đó cùng với Allah mà không có bất cứ bằng chứng nào (cho việc làm đó) thì việc tính sổ y thuộc về Thượng Đế của y. Quả thật những kẻ vô đức tin sẽ không thành đạt.

وَقُل رَّبِّ اغْفِرْ وَارْحَمْ وَأَنتَ خَيْرُ الرَّاحِمِينَ(118)

(Hỡi Thiên Sứ Muhammad!) Ngươi hãy cầu nguyện: “Lạy Thượng Đế của bề tôi, xin Ngài tha thứ cho bề tôi và thương xót bề tôi bởi Ngài là Đấng thương xót tốt nhất!”.


المزيد من السور باللغة الفيتنامية:

سورة البقرة آل عمران سورة النساء
سورة المائدة سورة يوسف سورة ابراهيم
سورة الحجر سورة الكهف سورة مريم
سورة السجدة سورة يس سورة الدخان
سورة النجم سورة الرحمن سورة الواقعة
سورة الحشر سورة الملك سورة الحاقة

تحميل سورة المؤمنون بصوت أشهر القراء :

قم باختيار القارئ للاستماع و تحميل سورة المؤمنون كاملة بجودة عالية
سورة المؤمنون أحمد العجمي
أحمد العجمي
سورة المؤمنون خالد الجليل
خالد الجليل
سورة المؤمنون سعد الغامدي
سعد الغامدي
سورة المؤمنون سعود الشريم
سعود الشريم
سورة المؤمنون عبد الباسط عبد الصمد
عبد الباسط
سورة المؤمنون عبد الله عواد الجهني
عبد الله الجهني
سورة المؤمنون علي الحذيفي
علي الحذيفي
سورة المؤمنون فارس عباد
فارس عباد
سورة المؤمنون ماهر المعيقلي
ماهر المعيقلي
سورة المؤمنون محمد جبريل
محمد جبريل
سورة المؤمنون محمد صديق المنشاوي
المنشاوي
سورة المؤمنون الحصري
الحصري
سورة المؤمنون العفاسي
مشاري العفاسي
سورة المؤمنون ناصر القطامي
ناصر القطامي
سورة المؤمنون ياسر الدوسري
ياسر الدوسري



Thursday, November 21, 2024

لا تنسنا من دعوة صالحة بظهر الغيب