Перевод суры Ас-Саффат на вьетнамский язык

  1. Сура mp3
  2. Другие суры
  3. вьетнамский
Священный Коран | Перевод Корана | Язык вьетнамский | Сура Ас-Саффат | الصافات - получите точный и надежный вьетнамский текст сейчас - Количество аятов: 182 - Номер суры в мушафе: 37 - Значение названия суры на русском языке: Those Who Set The Ranks.

وَالصَّافَّاتِ صَفًّا(1)

 Thề bởi các Thiên Thần đứng thành hàng chỉnh tề (trong thờ phượng Allah).

فَالزَّاجِرَاتِ زَجْرًا(2)

 Thề bởi các Thiên Thần di chuyển các đám mây mưa (theo ý chỉ của Allah).

فَالتَّالِيَاتِ ذِكْرًا(3)

 Thề bởi các Thiên Thần đọc Lời Nhắc nhở (Lời phán của Allah).

إِنَّ إِلَٰهَكُمْ لَوَاحِدٌ(4)

 Thượng Đế của các ngươi thực sự chỉ có một Đấng duy nhất.

رَّبُّ السَّمَاوَاتِ وَالْأَرْضِ وَمَا بَيْنَهُمَا وَرَبُّ الْمَشَارِقِ(5)

 (Đó là) Thượng Đế của các tầng trời, trái đất và vạn vật giữa trời đất và là Thượng Đế của các hướng (mặt trời mọc) ở phía Đông.

إِنَّا زَيَّنَّا السَّمَاءَ الدُّنْيَا بِزِينَةٍ الْكَوَاكِبِ(6)

 Quả thật! TA (Allah) đã làm đẹp tầng trời hạ giới bằng các vì sao.

وَحِفْظًا مِّن كُلِّ شَيْطَانٍ مَّارِدٍ(7)

 Và (TA dùng các vì sao để) bảo vệ (tầng trời hạ giới) khỏi từng tên Shaytan phản nghịch.

لَّا يَسَّمَّعُونَ إِلَى الْمَلَإِ الْأَعْلَىٰ وَيُقْذَفُونَ مِن كُلِّ جَانِبٍ(8)

 (Những tên Shaytan muốn nghe trộm) sẽ không nghe được hội nghị trên cao và chúng sẽ bị ném từ mọi phía.

دُحُورًا ۖ وَلَهُمْ عَذَابٌ وَاصِبٌ(9)

 Chúng bị đuổi đi xa. Và (vào Ngày Sau) chúng sẽ bị trừng phạt đời đời kiếp kiếp.

إِلَّا مَنْ خَطِفَ الْخَطْفَةَ فَأَتْبَعَهُ شِهَابٌ ثَاقِبٌ(10)

 Trừ tên nào nhanh nhẹn chụp lấy được (tin tức từ cuộc nói chuyện của các Thiên Thần) rồi chạy đi thì sẽ bị rượt đuổi bằng một hòn lửa sáng rực.

فَاسْتَفْتِهِمْ أَهُمْ أَشَدُّ خَلْقًا أَم مَّنْ خَلَقْنَا ۚ إِنَّا خَلَقْنَاهُم مِّن طِينٍ لَّازِبٍ(11)

 Ngươi (Thiên Sứ) hãy hỏi (những kẻ thờ đa thần phủ nhận sự Phục Sinh) phải chăng họ khó tạo hay ai khác mà TA đã tạo khó hơn. Quả thật, TA đã tạo họ từ một loại đất sét nhão, dính.

بَلْ عَجِبْتَ وَيَسْخَرُونَ(12)

 Không, Ngươi đã ngạc nhiên trước những gì họ chế giễu (trong việc phủ nhận sự Phục Sinh).

وَإِذَا ذُكِّرُوا لَا يَذْكُرُونَ(13)

 Khi được nhắc nhở thì họ không lưu tâm.

وَإِذَا رَأَوْا آيَةً يَسْتَسْخِرُونَ(14)

 Khi họ thấy một dấu hiệu lạ nào đó (từ Thiên Sứ) thì họ mang nó ra giễu cợt.

وَقَالُوا إِنْ هَٰذَا إِلَّا سِحْرٌ مُّبِينٌ(15)

 Họ nói: “Đấy rõ ràng chỉ là trò ảo thuật!”

أَإِذَا مِتْنَا وَكُنَّا تُرَابًا وَعِظَامًا أَإِنَّا لَمَبْعُوثُونَ(16)

 “Lẽ nào khi chúng tôi chết đi và đã biến thành đất bụi và xương tàn rồi chúng tôi thực sự được dựng sống lại?!”

أَوَآبَاؤُنَا الْأَوَّلُونَ(17)

 “Kể cả tổ tiên xa xưa của chúng tôi, (họ cũng sẽ được cho sống lại sao)?”

قُلْ نَعَمْ وَأَنتُمْ دَاخِرُونَ(18)

 Ngươi (hỡi Thiên Sứ) hãy nói (với họ): “Vâng, đúng vậy. Và các ngươi sẽ bị hạ nhục.”

فَإِنَّمَا هِيَ زَجْرَةٌ وَاحِدَةٌ فَإِذَا هُمْ يَنظُرُونَ(19)

 Quả thật, chỉ một tiếng Gầm duy nhất thì lúc đó (tất cả) họ sẽ ngóng nhìn (những gì diễn ra của Ngày Phán Xét).

وَقَالُوا يَا وَيْلَنَا هَٰذَا يَوْمُ الدِّينِ(20)

 Họ sẽ nói: “Thật khốn khổ thay cho chúng ta, đây đúng thật là Ngày Phán Xét Cuối Cùng!”

هَٰذَا يَوْمُ الْفَصْلِ الَّذِي كُنتُم بِهِ تُكَذِّبُونَ(21)

 (Rồi có tiếng bảo họ): “Đây chính là Ngày Phân Loại mà các ngươi đã từng phủ nhận.”

۞ احْشُرُوا الَّذِينَ ظَلَمُوا وَأَزْوَاجَهُمْ وَمَا كَانُوا يَعْبُدُونَ(22)

 “Hãy tập trung những kẻ làm điều sai quấy cùng với bạn đồng hành của chúng và cả những vật mà chúng đã thờ phượng,”

مِن دُونِ اللَّهِ فَاهْدُوهُمْ إِلَىٰ صِرَاطِ الْجَحِيمِ(23)

 “Thay vì Allah. bởi thế các ngươi hãy đưa chúng đến con đường tới Hỏa Ngục.”

وَقِفُوهُمْ ۖ إِنَّهُم مَّسْئُولُونَ(24)

 “Nhưng các ngươi hãy bắt chúng dừng lại bởi chúng còn phải bị tra hỏi.”

مَا لَكُمْ لَا تَنَاصَرُونَ(25)

 (Rồi có tiếng bảo họ): “Các ngươi có chuyện gì mà sao không chịu giúp đỡ nhau?”

بَلْ هُمُ الْيَوْمَ مُسْتَسْلِمُونَ(26)

 Không (chúng sẽ không làm được gì cho nhau) bởi Ngày đó chúng sẽ phải tự nạp mình (trước sự trừng phạt).

وَأَقْبَلَ بَعْضُهُمْ عَلَىٰ بَعْضٍ يَتَسَاءَلُونَ(27)

 Rồi chúng quay lại trách móc nhau.

قَالُوا إِنَّكُمْ كُنتُمْ تَأْتُونَنَا عَنِ الْيَمِينِ(28)

 Chúng nói (với những kẻ mà chúng đi theo): “Quả thật, các người là những kẻ đã đến gặp chúng tôi từ bên phải.”

قَالُوا بَل لَّمْ تَكُونُوا مُؤْمِنِينَ(29)

 (Những kẻ mà chúng đi theo) nói (với chúng): “Không, các người mới là những kẻ không có đức tin.”

وَمَا كَانَ لَنَا عَلَيْكُم مِّن سُلْطَانٍ ۖ بَلْ كُنتُمْ قَوْمًا طَاغِينَ(30)

 “Chúng tôi đâu có quyền bắt các người nghe theo. Tại các người là đám người vượt quá giới hạn mà thôi.”

فَحَقَّ عَلَيْنَا قَوْلُ رَبِّنَا ۖ إِنَّا لَذَائِقُونَ(31)

 “Giờ đây Lời Thượng Đế của chúng ta đã chứng thực với chúng ta. Chúng ta đành phải nếm hình phạt (của Ngài) mà thôi.”

فَأَغْوَيْنَاكُمْ إِنَّا كُنَّا غَاوِينَ(32)

 “Chúng tôi đã dẫn các người đi lạc và chúng tôi cũng là những kẻ lầm lạc.”

فَإِنَّهُمْ يَوْمَئِذٍ فِي الْعَذَابِ مُشْتَرِكُونَ(33)

 Cho nên, vào Ngày đó chúng sẽ cùng nhau san sẻ hình phạt.

إِنَّا كَذَٰلِكَ نَفْعَلُ بِالْمُجْرِمِينَ(34)

 TA (Allah) thực sự sẽ xử trí những kẻ tội lỗi đúng như thế.

إِنَّهُمْ كَانُوا إِذَا قِيلَ لَهُمْ لَا إِلَٰهَ إِلَّا اللَّهُ يَسْتَكْبِرُونَ(35)

 Quả thật, khi chúng được nhắc ‘Không có Thượng Đế nào khác ngoài Allah’ thì chúng ngạo mạn (từ chối).

وَيَقُولُونَ أَئِنَّا لَتَارِكُو آلِهَتِنَا لِشَاعِرٍ مَّجْنُونٍ(36)

 Chúng bảo: “Chẳng lẽ chúng ta lại đi bỏ các thần linh của chúng ta chỉ vì một gã thi sĩ điên khùng ư?”

بَلْ جَاءَ بِالْحَقِّ وَصَدَّقَ الْمُرْسَلِينَ(37)

 Không, (Muhammad không phải như các ngươi nói)! Y (đích thực) đã mang Chân Lý đến và xác nhận lại các Thiên Sứ (về những gì mà họ đã mang đến trước đó).

إِنَّكُمْ لَذَائِقُو الْعَذَابِ الْأَلِيمِ(38)

 Quả thật, (rồi đây vào Ngày Phán Xét) các ngươi (hỡi những kẻ đa thần) sẽ phải nếm hình phạt đau đớn.

وَمَا تُجْزَوْنَ إِلَّا مَا كُنتُمْ تَعْمَلُونَ(39)

 Và các ngươi sẽ bị trừng phạt chỉ bởi những điều (tội lỗi) mà các ngươi đã làm.

إِلَّا عِبَادَ اللَّهِ الْمُخْلَصِينَ(40)

 Trừ những bề tôi chân thành của Allah.

أُولَٰئِكَ لَهُمْ رِزْقٌ مَّعْلُومٌ(41)

 Họ sẽ có được bổng lộc được biết rõ (nơi Thiên Đàng).

فَوَاكِهُ ۖ وَهُم مُّكْرَمُونَ(42)

 (Trong đó, có đủ) loại trái quả, và họ là những người được ban cho vinh dự.

فِي جَنَّاتِ النَّعِيمِ(43)

 (Họ sẽ ở) trong những Ngôi Vườn tiện nghi.

عَلَىٰ سُرُرٍ مُّتَقَابِلِينَ(44)

 Tựa mình trên những chiếc tràng kỷ, mặt đối mặt.

يُطَافُ عَلَيْهِم بِكَأْسٍ مِّن مَّعِينٍ(45)

 Những cốc rượu được múc từ một con suối sẽ được chuyển vòng quanh họ.

بَيْضَاءَ لَذَّةٍ لِّلشَّارِبِينَ(46)

 Nó trong vắt, ngon tuyệt, làm cho người uống sảng khoái.

لَا فِيهَا غَوْلٌ وَلَا هُمْ عَنْهَا يُنزَفُونَ(47)

 Nó không làm cho họ nhức đầu và choáng váng.

وَعِندَهُمْ قَاصِرَاتُ الطَّرْفِ عِينٌ(48)

 Bên cạnh họ sẽ là những nàng trinh nữ tuyệt đẹp với đôi mắt to trữ tình đầy quyến rũ, chỉ biết ngắm nhìn (chồng của mình).

كَأَنَّهُنَّ بَيْضٌ مَّكْنُونٌ(49)

 Họ giống như những quả trứng non được cất giữ kỹ càng.

فَأَقْبَلَ بَعْضُهُمْ عَلَىٰ بَعْضٍ يَتَسَاءَلُونَ(50)

 Họ ngồi hàn huyên chuyện trò (nhắc lại chuyện xưa trên cõi trần).

قَالَ قَائِلٌ مِّنْهُمْ إِنِّي كَانَ لِي قَرِينٌ(51)

 Một người trong số họ nói: “Quả thật, tôi có một người bạn.”

يَقُولُ أَإِنَّكَ لَمِنَ الْمُصَدِّقِينَ(52)

 “Người đó bảo (tôi): Anh thực sự tin (vào sự Phục Sinh) sao?”

أَإِذَا مِتْنَا وَكُنَّا تُرَابًا وَعِظَامًا أَإِنَّا لَمَدِينُونَ(53)

 “Lẽ nào khi chúng ta chết đi và đã trở thành đất bụi và xương tàn, chúng ta sẽ (được dựng sống lại) để chịu sự thưởng phạt?”

قَالَ هَلْ أَنتُم مُّطَّلِعُونَ(54)

 (Người kể) nói (với những người bạn của mình đang nghe): “Các anh hãy (cùng tôi) nhìn xuống xem (người đó hiện đang ở đâu)?”

فَاطَّلَعَ فَرَآهُ فِي سَوَاءِ الْجَحِيمِ(55)

 Thế là y nhìn xuống và thấy người bạn (vô đức tin) của mình đang ở trong Hỏa Ngục.

قَالَ تَاللَّهِ إِن كِدتَّ لَتُرْدِينِ(56)

 Y nói: “Thề bởi Allah! Suýt nữa anh đã hủy hoại tôi rồi!”

وَلَوْلَا نِعْمَةُ رَبِّي لَكُنتُ مِنَ الْمُحْضَرِينَ(57)

 “Nếu không nhờ hồng ân của Thượng Đế của tôi thì chắc chắn tôi đã là một trong những người bị bắt dẫn đến (Hỏa Ngục).”

أَفَمَا نَحْنُ بِمَيِّتِينَ(58)

 “Chúng tôi (cư dân Thiên Đàng) sẽ không còn đối mặt với cái chết nữa?”

إِلَّا مَوْتَتَنَا الْأُولَىٰ وَمَا نَحْنُ بِمُعَذَّبِينَ(59)

 “Chỉ có cái chết đầu tiên của chúng tôi mà thôi và chúng tôi sẽ không bị trừng phạt.”

إِنَّ هَٰذَا لَهُوَ الْفَوْزُ الْعَظِيمُ(60)

 Quả thật, đó là một sự thắng lợi vĩ đại!

لِمِثْلِ هَٰذَا فَلْيَعْمَلِ الْعَامِلُونَ(61)

 Vì (phần thưởng) như thế này nên những người làm việc hãy cố gắng làm tốt.

أَذَٰلِكَ خَيْرٌ نُّزُلًا أَمْ شَجَرَةُ الزَّقُّومِ(62)

 (Sự thắng lợi) đó tốt hay cây Zaqqum tốt hơn?

إِنَّا جَعَلْنَاهَا فِتْنَةً لِّلظَّالِمِينَ(63)

 Quả thật, TA (Allah) đã tạo ra nó (cây Zaqqum) là để trừng phạt những kẻ làm điều sai quấy.

إِنَّهَا شَجَرَةٌ تَخْرُجُ فِي أَصْلِ الْجَحِيمِ(64)

 Quả thật, nó là một loại cây mọc từ dưới đáy của Hỏa Ngục.

طَلْعُهَا كَأَنَّهُ رُءُوسُ الشَّيَاطِينِ(65)

 Trái của nó trông giống như đầu của Shaytan.

فَإِنَّهُمْ لَآكِلُونَ مِنْهَا فَمَالِئُونَ مِنْهَا الْبُطُونَ(66)

 Thật sự, chúng (những kẻ vô đức tin) sẽ ăn nó và nhét nó vào đầy bụng.

ثُمَّ إِنَّ لَهُمْ عَلَيْهَا لَشَوْبًا مِّنْ حَمِيمٍ(67)

 (Sau khi chúng nhét đầy bụng với trái Zaqqum), chúng sẽ được cho uống từ một loại nước cực sôi.

ثُمَّ إِنَّ مَرْجِعَهُمْ لَإِلَى الْجَحِيمِ(68)

 Rồi chúng được đưa trở lại Hỏa Ngục.

إِنَّهُمْ أَلْفَوْا آبَاءَهُمْ ضَالِّينَ(69)

 Quả thật, chúng thấy cha mẹ của chúng là những kẻ lầm lạc.

فَهُمْ عَلَىٰ آثَارِهِمْ يُهْرَعُونَ(70)

 Nhưng chúng vẫn ngoan cố đi theo vết xe đổ của họ.

وَلَقَدْ ضَلَّ قَبْلَهُمْ أَكْثَرُ الْأَوَّلِينَ(71)

 Quả thật đa số người xưa thời trước chúng đã lầm lạc.

وَلَقَدْ أَرْسَلْنَا فِيهِم مُّنذِرِينَ(72)

 Quả thật, TA (Allah) đã gửi đến với họ những vị cảnh báo.

فَانظُرْ كَيْفَ كَانَ عَاقِبَةُ الْمُنذَرِينَ(73)

 Do đó, Ngươi (hỡi Thiên Sứ) hãy nhìn xem kết cuộc của những kẻ đã được cảnh báo đã bị ra sao.

إِلَّا عِبَادَ اللَّهِ الْمُخْلَصِينَ(74)

 Trừ các bề tôi chân thành của Allah (mới được thoát khỏi sự trừng phạt của Ngài).

وَلَقَدْ نَادَانَا نُوحٌ فَلَنِعْمَ الْمُجِيبُونَ(75)

 Quả thật, Nuh đã cầu nguyện TA, (TA đã đáp lại lời nguyện cầu của Y) bởi TA là Đấng Đáp Lại Ưu Việt.

وَنَجَّيْنَاهُ وَأَهْلَهُ مِنَ الْكَرْبِ الْعَظِيمِ(76)

 TA đã giải cứu Y và gia đình của Y thoát khỏi đại họa (trận đại hồng thủy).

وَجَعَلْنَا ذُرِّيَّتَهُ هُمُ الْبَاقِينَ(77)

 TA đã làm cho dòng dõi của Y sống sót.

وَتَرَكْنَا عَلَيْهِ فِي الْآخِرِينَ(78)

 TA đã để lại cho Y nơi hậu thế (lời chúc phúc).

سَلَامٌ عَلَىٰ نُوحٍ فِي الْعَالَمِينَ(79)

 (Đó là) lời chúc phúc Bằng An cho Nuh trên thế gian.

إِنَّا كَذَٰلِكَ نَجْزِي الْمُحْسِنِينَ(80)

 Quả thật, TA trọng thưởng những người làm tốt đúng như thế.

إِنَّهُ مِنْ عِبَادِنَا الْمُؤْمِنِينَ(81)

 Bởi Y đích thực là một trong những bề tôi có đức tin của TA.

ثُمَّ أَغْرَقْنَا الْآخَرِينَ(82)

 Rồi TA đã nhấn chìm đám người (tội lỗi) kia.

۞ وَإِنَّ مِن شِيعَتِهِ لَإِبْرَاهِيمَ(83)

 Quả thật, Ibrahim đã thực sự thuộc về tôn giáo của Y (Nuh).

إِذْ جَاءَ رَبَّهُ بِقَلْبٍ سَلِيمٍ(84)

 Khi (Ibrahim) đến với Thượng Đế của Y bằng một trái tim trong sạch (khỏi vết bẩn của Shirk).

إِذْ قَالَ لِأَبِيهِ وَقَوْمِهِ مَاذَا تَعْبُدُونَ(85)

 Khi (Ibrahim) nói với phụ thân và người dân của mình: “Các người đang thờ phượng gì thế kia?!”

أَئِفْكًا آلِهَةً دُونَ اللَّهِ تُرِيدُونَ(86)

 “Lẽ nào các người muốn thờ phượng các thần linh ngụy tạo thay vì Allah ư?”

فَمَا ظَنُّكُم بِرَبِّ الْعَالَمِينَ(87)

 “Vậy các người nghĩ sao về Thượng Đế của vũ trụ và vạn vật?”

فَنَظَرَ نَظْرَةً فِي النُّجُومِ(88)

 Rồi (Ibrahim) ngước lên (trời) nhìn các vì sao.

فَقَالَ إِنِّي سَقِيمٌ(89)

 Rồi (Ibrahim) bảo: “Tôi không khỏe (nên không thể đi chơi lễ hội cùng mọi người).”

فَتَوَلَّوْا عَنْهُ مُدْبِرِينَ(90)

 Thế là mọi người ra đi, bỏ lại (Ibrahim một mình).

فَرَاغَ إِلَىٰ آلِهَتِهِمْ فَقَالَ أَلَا تَأْكُلُونَ(91)

 Thế là (Ibrahim) đã lén đi gặp các thần linh của họ. Y hỏi chúng: “Sao các ngươi không chịu ăn?”

مَا لَكُمْ لَا تَنطِقُونَ(92)

 “Có chuyện gì với các ngươi, sao các ngươi không nói chuyện?”

فَرَاغَ عَلَيْهِمْ ضَرْبًا بِالْيَمِينِ(93)

 Rồi Y nhảy thẳng tới đánh bể chúng bằng tay phải.

فَأَقْبَلُوا إِلَيْهِ يَزِفُّونَ(94)

 Sau đó, (người dân) vội vã chạy đến gặp Y.

قَالَ أَتَعْبُدُونَ مَا تَنْحِتُونَ(95)

 (Ibrahim) nói: “Lẽ nào các người lại thờ những bức tượng do chính các người nắn tạc ra chúng?”

وَاللَّهُ خَلَقَكُمْ وَمَا تَعْمَلُونَ(96)

 “Trong khi Allah tạo ra các người và những thứ mà các người làm ra.”

قَالُوا ابْنُوا لَهُ بُنْيَانًا فَأَلْقُوهُ فِي الْجَحِيمِ(97)

 (Người dân của Ibrahim) bảo: “Chúng ta hãy xây cho nó một lò lửa rồi ném nó vào trong lửa đang cháy!”

فَأَرَادُوا بِهِ كَيْدًا فَجَعَلْنَاهُمُ الْأَسْفَلِينَ(98)

 Họ muốn mưu hại Ibrahim nhưng TA đã làm cho họ thất bại nhục nhã.

وَقَالَ إِنِّي ذَاهِبٌ إِلَىٰ رَبِّي سَيَهْدِينِ(99)

 (Ibrahim) nói: “Ta sẽ đi gặp Thượng Đế của Ta. Ngài sẽ hướng dẫn ta.”

رَبِّ هَبْ لِي مِنَ الصَّالِحِينَ(100)

 “Lạy Thượng Đế của bề tôi! Xin Ngài ban cho bề tôi một đứa con đức hạnh.”

فَبَشَّرْنَاهُ بِغُلَامٍ حَلِيمٍ(101)

 Thế là, TA đã ban cho Y tin mừng về một đứa con trai (Isma’il) biết kiên nhẫn chịu đựng.

فَلَمَّا بَلَغَ مَعَهُ السَّعْيَ قَالَ يَا بُنَيَّ إِنِّي أَرَىٰ فِي الْمَنَامِ أَنِّي أَذْبَحُكَ فَانظُرْ مَاذَا تَرَىٰ ۚ قَالَ يَا أَبَتِ افْعَلْ مَا تُؤْمَرُ ۖ سَتَجِدُنِي إِن شَاءَ اللَّهُ مِنَ الصَّابِرِينَ(102)

 Đến khi đứa con đến tuổi biết chạy, (Ibrahim) nói (với đứa con của mình): “Này con trai yêu của cha! Cha nằm mộng thấy rằng cha cần phải giết tế con. Thế con nghĩ sao?” Đứa con đáp: “Thưa cha! Cha cứ làm theo lệnh truyền rồi cha sẽ thấy con là một đứa con kiên nhẫn, Insha-Allah.”

فَلَمَّا أَسْلَمَا وَتَلَّهُ لِلْجَبِينِ(103)

 Thế rồi, khi hai cha con cùng nạp mình thần phục mệnh lệnh (của Allah), người cha để đứa con nằm nghiêng (chuẩn bị giết tế).

وَنَادَيْنَاهُ أَن يَا إِبْرَاهِيمُ(104)

 (Ngay lúc đó,) TA (Allah) đã gọi Y: “Này hỡi Ibrahim!”

قَدْ صَدَّقْتَ الرُّؤْيَا ۚ إِنَّا كَذَٰلِكَ نَجْزِي الْمُحْسِنِينَ(105)

 “Ngươi thực sự đã chứng thực điều trong giấc mộng.” Quả thật! TA ban thưởng cho những người làm tốt như thế.

إِنَّ هَٰذَا لَهُوَ الْبَلَاءُ الْمُبِينُ(106)

 Quả thật đây quả là một cuộc thử thách công khai cho (Ibrahim).

وَفَدَيْنَاهُ بِذِبْحٍ عَظِيمٍ(107)

 TA đã chuộc mạng (con trai của Ibrahim) bằng một con vật tế vĩ đại.

وَتَرَكْنَا عَلَيْهِ فِي الْآخِرِينَ(108)

 TA đã để lại (Ibrahim) nơi hậu thế (lời chúc phúc).

سَلَامٌ عَلَىٰ إِبْرَاهِيمَ(109)

 (Đó là) lời chúc phúc Bằng an cho Ibrahim.

كَذَٰلِكَ نَجْزِي الْمُحْسِنِينَ(110)

 TA ban thưởng cho những người làm tốt đúng như thế.

إِنَّهُ مِنْ عِبَادِنَا الْمُؤْمِنِينَ(111)

 Quả thật, (Ibrahim) là một trong những bề tôi có đức tin của TA.

وَبَشَّرْنَاهُ بِإِسْحَاقَ نَبِيًّا مِّنَ الصَّالِحِينَ(112)

 TA đã mang đến cho Y tin mừng về (đứa con trai) Is-haaq, (sau này sẽ trở thành) một vị Nabi đức hạnh.

وَبَارَكْنَا عَلَيْهِ وَعَلَىٰ إِسْحَاقَ ۚ وَمِن ذُرِّيَّتِهِمَا مُحْسِنٌ وَظَالِمٌ لِّنَفْسِهِ مُبِينٌ(113)

 TA đã ban phúc cho Y và Is-haaq, tuy nhiên, trong con cháu của hai người họ có một số làm tốt và có một số đã công khai bất công với bản thân mình.

وَلَقَدْ مَنَنَّا عَلَىٰ مُوسَىٰ وَهَارُونَ(114)

 Quả thật, TA đã ban ân cho Musa và Harun (với sứ mạng Nabi).

وَنَجَّيْنَاهُمَا وَقَوْمَهُمَا مِنَ الْكَرْبِ الْعَظِيمِ(115)

 TA đã giải cứu hai người họ và đám dân của họ (Israel) thoát khỏi đại họa (sự đuổi cùng giết tận của Pha-ra-ông).

وَنَصَرْنَاهُمْ فَكَانُوا هُمُ الْغَالِبِينَ(116)

 TA đã trợ giúp hai người họ giành lấy chiến thắng.

وَآتَيْنَاهُمَا الْكِتَابَ الْمُسْتَبِينَ(117)

 TA đã ban cho hai người họ một Kinh Sách sáng tỏ (Kinh Tawrah - Cựu Ước).

وَهَدَيْنَاهُمَا الصِّرَاطَ الْمُسْتَقِيمَ(118)

 TA đã hướng dẫn hai người họ con đường Ngay Thẳng (dẫn đến sự hài lòng của TA).

وَتَرَكْنَا عَلَيْهِمَا فِي الْآخِرِينَ(119)

 TA đã để lại hai người họ nơi hậu thế (lời chúc phúc).

سَلَامٌ عَلَىٰ مُوسَىٰ وَهَارُونَ(120)

 (Đó là) lời chúc bằng an cho Musa và Harun.

إِنَّا كَذَٰلِكَ نَجْزِي الْمُحْسِنِينَ(121)

 TA thực sự ban thưởng cho những người làm tốt đúng như thế.

إِنَّهُمَا مِنْ عِبَادِنَا الْمُؤْمِنِينَ(122)

 Quả thật hai người họ thuộc những bề tôi có đức tin của TA.

وَإِنَّ إِلْيَاسَ لَمِنَ الْمُرْسَلِينَ(123)

 Và Ilyas (Elias) đích thực là một trong các vị Thiên Sứ (của Allah).

إِذْ قَالَ لِقَوْمِهِ أَلَا تَتَّقُونَ(124)

 Khi Y bảo người dân của Y: “Các người không sợ Allah sao?”

أَتَدْعُونَ بَعْلًا وَتَذَرُونَ أَحْسَنَ الْخَالِقِينَ(125)

 “Lẽ nào các người cầu nguyện Bala (thần linh bục tượng) và bỏ rơi Đấng Tạo Hóa Ưu Việt?!”

اللَّهَ رَبَّكُمْ وَرَبَّ آبَائِكُمُ الْأَوَّلِينَ(126)

 “Allah là Thượng Đế của các người và cũng là Thượng Đế của tổ tiên xa xưa của các người.”

فَكَذَّبُوهُ فَإِنَّهُمْ لَمُحْضَرُونَ(127)

 Nhưng (đám dân của Ilyas) đã phủ nhận Y. Cho nên, họ sẽ phải bị dẫn đến (chỗ trừng phạt).

إِلَّا عِبَادَ اللَّهِ الْمُخْلَصِينَ(128)

 Trừ các bề tôi chân thành của Allah.

وَتَرَكْنَا عَلَيْهِ فِي الْآخِرِينَ(129)

 TA đã để lại Y nơi hậu thế (lời chúc phúc).

سَلَامٌ عَلَىٰ إِلْ يَاسِينَ(130)

 (Đó là) lời chúc Bằng an cho Ilyas.

إِنَّا كَذَٰلِكَ نَجْزِي الْمُحْسِنِينَ(131)

 TA thực sự ban thưởng cho những người làm tốt đúng như thế.

إِنَّهُ مِنْ عِبَادِنَا الْمُؤْمِنِينَ(132)

 (Ilyas) đích thực là một trong những bề tôi có đức tin của TA.

وَإِنَّ لُوطًا لَّمِنَ الْمُرْسَلِينَ(133)

 Và Lut đích thực là một trong các vị Sứ Giả (của Allah).

إِذْ نَجَّيْنَاهُ وَأَهْلَهُ أَجْمَعِينَ(134)

 Khi TA giải cứu (Lut) và toàn bộ gia đình của Y.

إِلَّا عَجُوزًا فِي الْغَابِرِينَ(135)

 Trừ vợ của Y (là kẻ vô đức tin), nữ ta sẽ ở cùng đám người bị trừng phạt.

ثُمَّ دَمَّرْنَا الْآخَرِينَ(136)

 Sau đó, TA đã hủy diệt đám người còn lại.-

وَإِنَّكُمْ لَتَمُرُّونَ عَلَيْهِم مُّصْبِحِينَ(137)

 Quả thật, các ngươi (hỡi dân Makkah) thường đi ngang qua (chỗ của) họ vào buổi sáng,

وَبِاللَّيْلِ ۗ أَفَلَا تَعْقِلُونَ(138)

 Và ban đêm. Nhưng sao các ngươi không chịu suy ngẫm?

وَإِنَّ يُونُسَ لَمِنَ الْمُرْسَلِينَ(139)

 Và Yunus đích thực là một trong các vị Sứ Giả (của Allah).

إِذْ أَبَقَ إِلَى الْفُلْكِ الْمَشْحُونِ(140)

 Khi (Yunus) bỏ chạy đến một chiếc tàu chở đầy (người và đồ đạc).

فَسَاهَمَ فَكَانَ مِنَ الْمُدْحَضِينَ(141)

 (Yunus) đã rút thăm và Y đã thua cuộc.(1)

فَالْتَقَمَهُ الْحُوتُ وَهُوَ مُلِيمٌ(142)

 Rồi một con cá voi đã nuốt chửng Y vì Y đã phạm một điều đáng trách.(2)

فَلَوْلَا أَنَّهُ كَانَ مِنَ الْمُسَبِّحِينَ(143)

 Nếu như (Yunus) không phải là người (biết ăn năn sám hối và) tán dương Allah,

لَلَبِثَ فِي بَطْنِهِ إِلَىٰ يَوْمِ يُبْعَثُونَ(144)

 Thì Y đã phải ở trong bụng của (con cá) cho đến ngày Phục Sinh.

۞ فَنَبَذْنَاهُ بِالْعَرَاءِ وَهُوَ سَقِيمٌ(145)

 Rồi TA đã cho (Yunus) ra khỏi bụng con cá và dạt vào một bờ biển hoang trong tình trạng yếu ớt.

وَأَنبَتْنَا عَلَيْهِ شَجَرَةً مِّن يَقْطِينٍ(146)

 TA đã cho một loại cây thuộc họ bầu (bí) mọc bao phủ thân người Y.

وَأَرْسَلْنَاهُ إِلَىٰ مِائَةِ أَلْفٍ أَوْ يَزِيدُونَ(147)

 (Sau đó) TA đã cử Y đến với một trăm ngàn người dân hoặc nhiều hơn.

فَآمَنُوا فَمَتَّعْنَاهُمْ إِلَىٰ حِينٍ(148)

 (Đám dân đó), họ đã có đức tin nên TA đã cho họ hưởng lạc (sống trên thế gian) đến một thời gian (ấn định).

فَاسْتَفْتِهِمْ أَلِرَبِّكَ الْبَنَاتُ وَلَهُمُ الْبَنُونَ(149)

 Ngươi (Thiên Sứ) hãy hỏi (những kẻ thờ đa thần) phải chăng con gái thuộc về Thượng Đế của Ngươi còn con trai là của họ?

أَمْ خَلَقْنَا الْمَلَائِكَةَ إِنَاثًا وَهُمْ شَاهِدُونَ(150)

 Hoặc phải chăng họ đã tận mắt chứng kiến việc TA đã tạo hóa các Thiên Thần đều là giống cái?

أَلَا إِنَّهُم مِّنْ إِفْكِهِمْ لَيَقُولُونَ(151)

 Họ quả thật đã nói dối khi bảo:

وَلَدَ اللَّهُ وَإِنَّهُمْ لَكَاذِبُونَ(152)

 “Allah đã sinh con.” Họ đúng thực là những kẻ nói dối (phạm thượng).

أَصْطَفَى الْبَنَاتِ عَلَى الْبَنِينَ(153)

 Lẽ nào Ngài chọn con gái hơn con trai?

مَا لَكُمْ كَيْفَ تَحْكُمُونَ(154)

 Các ngươi phân xử sao thế?

أَفَلَا تَذَكَّرُونَ(155)

 Lẽ nào các ngươi không nhớ (các ngươi đã sai thế nào) hay sao?

أَمْ لَكُمْ سُلْطَانٌ مُّبِينٌ(156)

 Hoặc lẽ nào các ngươi có đủ thẩm quyền rõ ràng chăng?

فَأْتُوا بِكِتَابِكُمْ إِن كُنتُمْ صَادِقِينَ(157)

 Nếu các ngươi nói thật thì các ngươi hãy mang kinh sách của các ngươi đến xem nào?

وَجَعَلُوا بَيْنَهُ وَبَيْنَ الْجِنَّةِ نَسَبًا ۚ وَلَقَدْ عَلِمَتِ الْجِنَّةُ إِنَّهُمْ لَمُحْضَرُونَ(158)

 (Những kẻ thờ đa thần) đã bịa đặt mối quan hệ thân thuộc giữa Ngài và loài Jinn trong lúc loài Jinn biết rõ việc chúng sẽ phải trình diện Ngài.

سُبْحَانَ اللَّهِ عَمَّا يَصِفُونَ(159)

 Quang Vinh và trong sạch thay Allah, (sự tối cao và siêu việt của Ngài vượt hẳn) những điều mà họ mô tả về Ngài!

إِلَّا عِبَادَ اللَّهِ الْمُخْلَصِينَ(160)

 Trừ các bề tôi chân thành của Allah.

فَإِنَّكُمْ وَمَا تَعْبُدُونَ(161)

 Các ngươi (những kẻ thờ đa thần) và những thứ mà các ngươi thờ phượng.

مَا أَنتُمْ عَلَيْهِ بِفَاتِنِينَ(162)

 Các ngươi không thể quyến dụ được ai (lệch khỏi tôn giáo chân lý).

إِلَّا مَنْ هُوَ صَالِ الْجَحِيمِ(163)

 Ngoại trừ những ai muốn đi vào Hỏa Ngục.

وَمَا مِنَّا إِلَّا لَهُ مَقَامٌ مَّعْلُومٌ(164)

 (Các Thiên Thần nói): “Không ai trong chúng tôi lại không có một vị trí được ấn định (trong thờ phượng Allah và tuân lệnh Ngài).”

وَإِنَّا لَنَحْنُ الصَّافُّونَ(165)

 “Quả thật, chúng tôi đứng thành hàng.”

وَإِنَّا لَنَحْنُ الْمُسَبِّحُونَ(166)

 “Và quả thật, chúng tôi luôn tán dương Ngài.”

وَإِن كَانُوا لَيَقُولُونَ(167)

 Và dù (những kẻ thờ đa thần ở Makkah) đã thường nói:

لَوْ أَنَّ عِندَنَا ذِكْرًا مِّنَ الْأَوَّلِينَ(168)

 “Phải chi chúng tôi có được một Lời Nhắc Nhở (những kinh sách chẳng hạn như Kinh Tawrah) từ những người thời trước,”

لَكُنَّا عِبَادَ اللَّهِ الْمُخْلَصِينَ(169)

 “Thì quả thật chúng tôi đã là những bề tôi chân thành của Allah rồi.”

فَكَفَرُوا بِهِ ۖ فَسَوْفَ يَعْلَمُونَ(170)

 (Và khi Kinh Qur’an được mang đến) thì họ phủ nhận Nó, rồi đây họ sẽ sớm biết (hình phạt đang đợi họ ở Ngày Phán Xét)!

وَلَقَدْ سَبَقَتْ كَلِمَتُنَا لِعِبَادِنَا الْمُرْسَلِينَ(171)

 Quả thật, Lời Phán của TA đã được phán cho các bề tôi của TA, họ là các vị Sứ Giả.

إِنَّهُمْ لَهُمُ الْمَنصُورُونَ(172)

 Quả thật, họ là những người được trợ giúp (từ nơi TA).

وَإِنَّ جُندَنَا لَهُمُ الْغَالِبُونَ(173)

 Quả thật, quân binh của TA luôn giành chiến thắng.

فَتَوَلَّ عَنْهُمْ حَتَّىٰ حِينٍ(174)

 Do đó, Ngươi (Thiên Sứ) hãy bỏ mặc họ cho tới khi thời hạn (đã đến).

وَأَبْصِرْهُمْ فَسَوْفَ يُبْصِرُونَ(175)

 Và chờ xem (sự trừng phạt dành cho họ), rồi đây họ sẽ sớm thấy (sự trừng phạt đó)!

أَفَبِعَذَابِنَا يَسْتَعْجِلُونَ(176)

 Có phải họ hối thúc sự trừng phạt của TA?

فَإِذَا نَزَلَ بِسَاحَتِهِمْ فَسَاءَ صَبَاحُ الْمُنذَرِينَ(177)

 Nhưng khi (sự trừng phạt của TA) rơi xuống sân nhà của họ thì buổi sáng sẽ là hoàn cảnh thê thảm cho những kẻ đã được báo trước.

وَتَوَلَّ عَنْهُمْ حَتَّىٰ حِينٍ(178)

 Cho nên, Ngươi (hỡi Thiên Sứ) hãy bỏ mặc họ cho tới khi thời hạn (đã đến).

وَأَبْصِرْ فَسَوْفَ يُبْصِرُونَ(179)

 Và chờ xem (sự trừng phạt dành cho họ), rồi đây họ sẽ sớm thấy (sự trừng phạt đó)!

سُبْحَانَ رَبِّكَ رَبِّ الْعِزَّةِ عَمَّا يَصِفُونَ(180)

 Quang Vinh và tối cao thay Thượng Đế của Ngươi! Thượng Đế của Quyền Lực! Ngài siêu việt vượt xa những điều mà họ đã mô tả (về Ngài).

وَسَلَامٌ عَلَى الْمُرْسَلِينَ(181)

 Sự Bằng an dành cho các vị Sứ Giả (vinh dự của Allah)!

وَالْحَمْدُ لِلَّهِ رَبِّ الْعَالَمِينَ(182)

 Alhamdulillah, Đấng Chủ Tể của vũ trụ và vạn vật.


Больше сур в вьетнамский:


Аль-Бакара Аль-'Имран Ан-Ниса'
Аль-Маида Юсуф Ибрахим
Аль-Хиджр Аль-Кахф Марьям
Аль-Хадж Аль-Касас Аль-'Анкабут
Ас-Саджда Я-Син Ад-Духан
Аль-Фатх Аль-Худжурат Каф
Ан-Наджм Ар-Рахман Аль-Ваки'а
Аль-Хашр Аль-Мульк Аль-Хакка
Аль-Иншикак Аль-А'ла Аль-Гашия

Скачать суру As-Saaffat с голосом самых известных рекитаторов Корана:

Сура As-Saaffat mp3: выберите рекитатора, чтобы прослушать и скачать главу As-Saaffat полностью в высоком качестве
surah As-Saaffat Ahmed El Agamy
Ahmed Al Ajmy
surah As-Saaffat Bandar Balila
Bandar Balila
surah As-Saaffat Khalid Al Jalil
Khalid Al Jalil
surah As-Saaffat Saad Al Ghamdi
Saad Al Ghamdi
surah As-Saaffat Saud Al Shuraim
Saud Al Shuraim
surah As-Saaffat Abdul Basit Abdul Samad
Abdul Basit
surah As-Saaffat Abdul Rashid Sufi
Abdul Rashid Sufi
surah As-Saaffat Abdullah Basfar
Abdullah Basfar
surah As-Saaffat Abdullah Awwad Al Juhani
Abdullah Al Juhani
surah As-Saaffat Fares Abbad
Fares Abbad
surah As-Saaffat Maher Al Muaiqly
Maher Al Muaiqly
surah As-Saaffat Muhammad Siddiq Al Minshawi
Al Minshawi
surah As-Saaffat Al Hosary
Al Hosary
surah As-Saaffat Al-afasi
Mishari Al-afasi
surah As-Saaffat Yasser Al Dosari
Yasser Al Dosari


Thursday, November 21, 2024

Помолитесь за нас хорошей молитвой